Vợ Phan Mạnh Quỳnh chăm giữ dáng, không bị phá nét dù "bầu vượt mặt". Hạ An 12.10.2022. Mang thai tháng thứ 6, Khánh Vy - bà xã Phan Mạnh Quỳnh vẫn giữ được năng lượng tích cực, chăm tập luyện để con khỏe mẹ xinh. Bà xã nam nhạc sĩ còn khiến dân tình thích khi diện đồ Và trái "tu-rên" đó tự nhiên rụng xuống giữa lúc chàng ra thăm cây kỷ niệm của vợ. Chàng mừng rỡ quyết đưa nó cùng mình về quê nhà. Chàng trở lại với nghề cũ. Nhưng nỗi buồn nhớ vợ canh cánh không bao giờ nguôi. Chàng ươm hạt cây "tu-rên" rồi đem trồng trong vườn, ngoài ngõ. Từ đây ngoài việc dạy học, chàng còn có công việc lo chăm sóc cây quý. Anh Hiếu đừng lồng triết học Marx - Lenin để phân tích lá số. Lenin dùng khái niệm bản chất & hiện tượng để phân tích rõ sự khác nhau trong bản chất & hiện tượng (cách hành động) của người vô sản CS & người tư bản. Theo Freud, vô thức là nơi tập trung những động cơ. Những động cơ này có thể là đơn giản như muốn được tin trong khi đói hay nhu cầu thỏa mãn tính dục, hoặc những xung động thần kinh tự động. Vô thức còn chứa trong nó những động cơ cao hơn, phức tạp hơn như vẫn Lúc nào cũng thế, suốt năm suốt đời như thế". - hàng ngày Mị càng ko nói, lùi lũi như nhỏ rùa nuôi trong xó cửa. - Ở cái phòng Mị nằm, bí mật mít, bao gồm một chiếc hành lang cửa số một lỗ vuông bằng bàn tay. Cơ hội nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không cash. Đề ra Cảm nhận đoạn thơ sau trong đoạn trích “Đất Nước” – Nguyễn Khoa Điềm “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu … Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.” I. MỞ BÀI II. THÂN BÀI 1. Khái quát tác giả, tác phẩm 2. Cảm nhận nội dung Một. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” trước hết được thể hiện qua lòng biết ơn sâu sắc của nhà thơ đối với nhân dân đã “góp công” cuộc đời, tuổi tác, tên tuổi, số phận của mình để biến thành những địa danh. , danh lam thắng cảnh. Những địa danh và thắng cảnh này gắn liền với cuộc sống, số phận và tính cách của con người “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình cho đất tổ Hùng Vương Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm…” – Trước hết có thể thấy nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật liệt kê liệt kê địa danh, dùng động từ “góp” để gợi tả hình ảnh con người hóa thân thành cảnh đẹp. Đẹp cho Đất Nước. Những danh lam thắng cảnh này được nhà thơ liệt kê từ Bắc chí Nam, đâu đâu cũng có người. + Ở phương Bắc, cảnh ấy hiện lên với núi Vọng Phu, hòn Trống Mái tượng trưng cho vẻ đẹp của tình yêu chung thủy, bền vững. Hòn Vọng Phu nay còn ở Lạng Sơn, gắn với câu chuyện nàng Tô Thị ôm con chờ chồng hóa đá. Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn, Thanh Hóa, được cho là do một đôi trai gái yêu nhau hóa thân. Thời gian trôi qua, vẻ đẹp của lòng trung thành và tình cảm là bất tử. + Đó còn là vẻ đẹp của người anh hùng làng Gióng với chứng tích là “bờ ao” hình móng ngựa mọc quanh chân núi Sóc Sơn Hà Nội. Đó là quần thể núi non hùng vĩ “chín mươi chín con voi” bao quanh núi Hi Cương Phú Thọ, nơi có đền thờ Vua Hùng. Đó là “con cóc, con gà quê hương góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”. Tất cả nhằm nhắc nhở chúng ta về truyền thống đánh giặc bảo vệ Tổ quốc, công cuộc dựng nước và giữ nước của ông cha ta. + Ở miền Trung, nhà thơ đưa ta về với mảnh đất Quảng Ngãi để chiêm ngưỡng “Núi Bút, núi Nghiên” do một chàng sinh viên nghèo xây dựng. Là biểu tượng của truyền thống hiếu học của nhân dân đã góp phần làm rạng danh đất nước. + Ở phương Nam, danh thắng là dòng sông Cửu Long hiền hòa, đẹp đẽ “Những con rồng nằm im dưới dòng sông xanh thẳm”. Là những người dân hiền lành, chăm chỉ, họ góp phần làm nên “tên xã, tên bản trong mỗi chuyến di cư”. Đó là “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”. NS. Bốn câu thơ cuối nâng ý thơ lên ​​một tầm khái quát sự hóa thân của Nhân dân dưới bóng Đất Nước. Con người là những người đã tạo dựng nên, đặt tên và ghi dấu ấn cuộc đời của mình trên mọi ngọn núi, con sông, mọi miền đất nước này “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha Ôi! Đất Nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” – Hai câu đầu nhằm khẳng định hình dáng của Con Người trong không gian đất nước “nương ngang, nương rẫy”. Hình bóng con người ấy không chỉ làm đẹp cho đất nước mà còn mang theo “một ước vọng, một nếp sống của ông cha ta”. Nghĩa là, con người không chỉ đóng góp vào danh lam thắng cảnh, mà còn đóng góp vào đó những giá trị tinh thần, phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa sẽ được bảo tồn mai sau. – Hai câu cuối, hình ảnh thơ được nâng lên cao dần và khép lại bằng câu văn uyên bác “Đời ta đã hóa núi sông”. “Sông núi của ta” có được là do những “kiếp người” đã hóa thân góp phần tạo nên. Con người không chỉ đóng góp tuổi, tên mà còn đóng góp cả cuộc đời, số phận của họ. Ý thơ giản dị mà sâu sắc khiến ta hình dung đất nước thật gần gũi, thân quen. 3. Tổng kết nghệ thuật Bài thơ có kết cấu chặt chẽ, được viết tự nhiên theo thể thơ tự do. Câu thơ được kéo dài, mở rộng, chuyển đổi linh hoạt khiến đoạn văn thờ giàu sức gợi cảm, có sức khái quát cao. Biện pháp liệt kê các địa danh, nhà thơ luôn viết hoa hai chữ Đất Nước, thể hiện sự thành kính thiêng liêng. Động từ “to donate” được lặp lại nhiều lần. Tất cả tạo nên một bài thơ hay về đất nước. III. KẾT BÀI Pau-top-xki đã từng nói “Niềm vui của nhà thơ chân chính là niềm vui của người mở đường đến với cái đẹp” . Và phải chăng Nguyễn Khoa Điềm đã tìm thấy được niềm vui ấy khi mở đường đến với cái đẹp của tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”. from SHARE TÀI LIỆU Bạn đang thắc mắc về câu hỏi phân tích đoạn những người vợ nhớ chồng nhưng chưa có câu trả lời, vậy hãy để tổng hợp và liệt kê ra những top bài viết có câu trả lời cho câu hỏi phân tích đoạn những người vợ nhớ chồng, từ đó sẽ giúp bạn có được đáp án chính xác nhất. Bài viết dưới đây hi vọng sẽ giúp các bạn có thêm những sự lựa chọn phù hợp và có thêm những thông tin bổ tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ ”Những người vợ … tích khổ cuối bài thơ Đất Nước Những người vợ nhớ thương … giảng đoạn thơ sau trong Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm4.“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước … – Wiki dân ý đoạn trích những người vợ nhớ chồng những cuộc đời đã … nhận về đoạn thơ sau Những người vợ nhớ chồng còn góp … tích đoạn thơ “Những người vợ nhớ chồng…” tưởng Đất Nước của nhân dân trong đoạn trích những người vợ … tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ ””Những người vợ … tich nhung nguoi vo nho chong cua bai tho dat nuoc – 123docNhững thông tin chia sẻ bên trên về câu hỏi phân tích đoạn những người vợ nhớ chồng, chắc chắn đã giúp bạn có được câu trả lời như mong muốn, bạn hãy chia sẻ bài viết này đến mọi người để mọi người có thể biết được thông tin hữu ích này nhé. Chúc bạn một ngày tốt lành! Top Văn Học -TOP 9 phân tích vợ nhặt tràng HAY và MỚI NHẤTTOP 10 phân tích vợ nhặt của kim lân HAY và MỚI NHẤTTOP 10 phân tích vội vàng 2 khổ cuối HAY và MỚI NHẤTTOP 10 phân tích về nhân vật anh thanh niên HAY và MỚI NHẤTTOP 10 phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt HAY và MỚI NHẤTTOP 9 phân tích vẻ đẹp dòng sông đà HAY và MỚI NHẤTTOP 10 phân tích vẻ đẹp của ngô tử văn HAY và MỚI NHẤT Bạn đang thắc mắc về câu hỏi phân tích đoạn thơ những người vợ nhớ chồng nhưng chưa có câu trả lời, vậy hãy để tổng hợp và liệt kê ra những top bài viết có câu trả lời cho câu hỏi phân tích đoạn thơ những người vợ nhớ chồng, từ đó sẽ giúp bạn có được đáp án chính xác nhất. Bài viết dưới đây hi vọng sẽ giúp các bạn có thêm những sự lựa chọn phù hợp và có thêm những thông tin bổ tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ ”Những người vợ … tích khổ cuối bài thơ Đất Nước Những người vợ nhớ thương … giảng đoạn thơ sau trong Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm4.“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước … – Wiki tích đoạn trích sau trong ” Đất Nước” của Nguyễn Khoa dân ý đoạn trích những người vợ nhớ chồng những cuộc đời đã … nhận về đoạn thơ sau Những người vợ nhớ chồng còn góp … tích đoạn thơ “Những người vợ nhớ chồng…” nhận về đoạn thơ sau Những người vợ nhớ chồng góp cho … nhận đoạn thơ Những người vợ …Đã hóa núi sông ta … – 123docNhững thông tin chia sẻ bên trên về câu hỏi phân tích đoạn thơ những người vợ nhớ chồng, chắc chắn đã giúp bạn có được câu trả lời như mong muốn, bạn hãy chia sẻ bài viết này đến mọi người để mọi người có thể biết được thông tin hữu ích này nhé. Chúc bạn một ngày tốt lành! Top Văn Học -TOP 10 phân tích đoạn thơ chí khí anh hùng HAY và MỚI NHẤTTOP 10 phân tích đoạn ta về mình có nhớ ta HAY và MỚI NHẤTTOP 9 phân tích đoạn 1 của bài đại cáo bình ngô HAY và MỚI NHẤTTOP 10 phân tích điểm thi 2021 để chọn nguyện vọng HAY và MỚI NHẤTTOP 10 phân tích đa thức thành nhân tử lớp 9 HAY và MỚI NHẤTTOP 10 phân tích đa thức thành nhân tử bài tập HAY và MỚI NHẤTTOP 10 phân tích xổ số khánh hòa HAY và MỚI NHẤT Lập dân ý đoạn trích những người vợ nhớ chồng những cuộc đời đã hóa núi sông ta Đề ra Cảm nhận đoạn thơ sau trong đoạn trích “Đất Nước” – Nguyễn Khoa Điềm “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu … Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.” HƯỚNG DẪN I. MỞ BÀI giới thiệu vấn đề II. THÂN BÀI 1. Khái quát tác giả, tác phẩm 2. Cảm nhận nội dung a. Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” trước hết được thể hiện qua sự biết ơn sâu nặng của nhà thơ đối với nhân dân đã “góp” cuộc đời mình, tuổi tên của mình, số phận mình để hóa thân thành những địa danh, thắng cảnh. Những địa danh, thắng cảnh ấy gắn với cuộc sống, số phận, tính cách của nhân dân “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình cho đất tổ Hùng Vương Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhCó thể bạn quan tâmCon người mất bao nhiêu lượng nước của cơ thể thì tử vong?Quyền Linh lấy vợ năm bao nhiêu?Điều gì đã xảy ra với Mặt trăng vào ngày 4 tháng 3 năm 2023?Từ các chữ số 1, 2, 3 5, 6 có thể lập được bao nhiêu số tự nhiên gồm 3 chữ số khác nhauNhững ngày tốt tháng 3 2023 Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm…” – Trước hết, ta có thể thấy, nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật liệt kê liệt kê những địa danh, sử dụng động từ “góp” để diễn tả hình ảnh của nhân dân hóa thân thành những danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp cho Đất Nước. Các danh thắng ấy được nhà thơ liệt kê từ Bắc đến Nam, đâu đâu cũng mang bóng dáng nhân dân. + Ở miền Bắc, danh thắng ấy hiện lên với núi Vọng Phu, hòn Trống Mái biểu tượng cho vẻ đẹp của tình yêu thủy chung bền vững. Hòn Vọng Phu nay vẫn còn ở Lạng Sơn gắn liền với tích nàng Tô Thị bồng con chờ chồng hóa đá. Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn, Thanh Hóa, tương truyền do hai vợ chồng yêu nhau hóa thân thành. Thời gian trôi qua, những vẻ đẹp thủy chung, nghĩa tình đã bất tử. + Đó còn là vẻ đẹp người anh hùng làng Gióng với chứng tích “ao đầm ” hình móng chân ngựa mọc đầy quanh chân núi Sóc Sơn Hà Nội. Đó là quần thể núi non hùng vĩ “chín mươi chín con voi” bao quanh núi Hi Cương Phú Thọ nơi đền thờ vua Hùng ngự trị. Đó là “con cóc con gà quê hương góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”. Tất cả nhằm nhắc nhở chúng ta nhớ về truyền thống đánh giặc giữ nước, công cuộc xây dựng, kiến thiết đất nước của cha ông. + Ở miền Trung, nhà thơ đưa ta về với vùng đất Quảng Ngãi để chiêm ngưỡng “núi Bút, non Nghiên” do cậu học trò nghèo dựng nên. Đó là biểu tượng của truyền thống hiếu học của nhân dân đã góp cho đất nước bao tên tuổi. + Ở miền Nam, danh thắng là con sông Cửu Long hiền hòa, tươi đẹp “Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”. Là những người dân hiền lành, chăm chỉ góp nên “tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân”. Đó là “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”. b. Bốn câu thơ cuối nâng ý thơ lên tầm khái quát sự hóa thân của Nhân Dân vào bóng hình Đất Nước. Nhân Dân chính là người đã tạo dựng, đã đặt tên, ghi dấu ấn cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, khắp mọi miền đất nước này “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha Ôi! Đất Nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” – Hai câu đầu là khẳng định dáng hình của Nhân Dân trong không gian Đất Nước “trên khắp ruộng đồng gò bãi”. Bóng hình ấy của nhân dân không chỉ làm cho đất nước thêm phần tươi đẹp mà còn mang “một ao ước, một lối sống cha ông”. Nghĩa là nhân dân không chỉ góp danh lam thắng cảnh, mà còn góp vào đó những giá trị tinh thần, là phong tục, tập quán, là truyền thống văn hóa lưu dấu tới mai sau. – Hai câu cuối, hình tượng thơ được nâng dần lên và chốt lại bằng một câu đầy trí tuệ “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”. “Núi sông ta” sỡ dĩ có được là nhờ “những cuộc đời” đã hóa thân để góp nên. Nhân Dân không chỉ góp tuổi, góp tên mà còn góp cả cuộc đời và số phận mình. Ý thơ giản dị mà sâu sắc khiến ta hình dung Đất Nước thật gần gũi và thân thuộc. 3. Tổng kết nghệ thuật Đoạn thơ có kết cấu chặt chẽ, tự nhiên được viết theo thể thơ tự do. Câu thơ mở rộng kéo dài, biến hóa linh hoạt tạo cho đoạn thờ giàu sức gợi cảm và khái quát cao. Thủ pháp liệt kê địa danh, nhà thơ luôn viết hoa hai chữ Đất Nước thể hiện sự thành kính thiêng liêng. Động từ “góp” được nhắc lại nhiều lần. Tất cả làm nên đoạn thơ hay về đất nước. III. KẾT BÀI Pau-top-xki đã từng nói “Niềm vui của nhà thơ chân chính là niềm vui của người mở đường đến với cái đẹp” . Và phải chăng Nguyễn Khoa Điềm đã tìm thấy được niềm vui ấy khi mở đường đến với cái đẹp của tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”. Xem thêm Cảm nhận đoạn 9 câu đầu Đất Nước —–Thầy Phan Danh HiếuBiên Hòa, Đồng Ngữ văn, Luyện thi ĐH của trung tâm Nguyệt Quế. 307. Đồng Khởi. KP 1. Tân Mai. Biên Hòa Hướng dẫn “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước nhưng núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương …. Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” Phân tích đoạn thơ trên để làm rõ những cảm nhận riêng, độc đáo về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm. I. Dàn ý chi tiết cho đề phân tích đoạn thơ trong Đất nước 1. Mở bài Giới thiệu bài thơ “Đất nước” là đoạn trích đặc sắc trích trong tác phẩm trường ca Mặt đường khát vọng, tác phẩm thể hiện rõ nét tài năng và tâm huyết của Nguyễn Khoa Điềm. 2. Thân bài – Trong bài thơ Đất nước, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện được cái nhìn sâu sắc khi phát hiện ra những biểu hiện đầy mới mẻ của khái niệm “đất nước”. + Trước hết, đó chính là những phát hiện mới mẻ về phương diện không gian địa lí của đất nước. Trong nhận thức của nhà thơ, không gian địa lí, địa danh, hình hài của đất nước được tạo nên từ chính những điều gần gũi, thiêng liêng nhất bởi đó là sự hóa thân của nhân dân. Nhân dân- những con người vô danh nhưng những con người vô danh ấy đã cùng nhau gây dựng nên cái hữu danh của đất nước. Mỗi người đều lặng lẽ góp phần làm nên vẻ đẹp, sự kì thú của thiên nhiên cũng như làm phong phú hơn cho những truyền thống văn hóa của đất nước. + Thể hiện sự suy ngẫm mang tính triết lí sâu sắc về vẻ đẹp tâm hồn của con người, kịch sử Việt Nam. –> Đó là truyền thống hiếu học, là tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất của của những con người Việt Nam để làm nên những truyền thống hào hùng, đáng tự hào của dân tộc. – Từ những cuộc đời, những hóa thân cụ thể, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những nhận thức sâu sắc hơn về mối quan hệ gắn bó giữa đất nước với nhân dân. – Đất nước là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất chính luận trữ tình và chất suy tưởng mang đến những giá trị tư tưởng đặc sắc cho tác phẩm. – Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng linh hoạt chất liệu dân gian, đưa vào những yếu tố văn hóa đậm nét, nổi bật để thể hiện những cảm nhận độc đáo về đất nước. 3. Kết bài Đoạn thơ đã thể hiện được tư tưởng đất nước của nhân dân của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, đây cũng là đóng góp mới lạ, độc đáo về chủ đề đất nước. II. Bài tham khảo Nguyễn Khoa Điềm là gương mặt nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Viết về cuộc kháng chiến bằng những trải nghiệm chân thực với hồn thơ giàu chất suy tư, lắng đọng, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện được tình yêu nước, tâm tư của người trí thức tích cực tham gia vào cuộc chiến đấu của nhân dân. “Đất nước” là đoạn trích đặc sắc trích trong tác phẩm trường ca Mặt đường khát vọng, tác phẩm thể hiện rõ nét tài năng và tâm huyết của Nguyễn Khoa Điềm. Qua bài thơ tác giả đã thể hiện được những cảm nhạn riêng biệt mà vô cùng độc đáo và đất nước. Trong bài thơ Đất nước, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện được cái nhìn sâu sắc khi phát hiện ra những biểu hiện đầy mới mẻ của khái niệm “đất nước”. Trước hết, đó chính là những phát hiện mới mẻ về phương diện không gian địa lí của đất nước “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước nhưng núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương” Trong nhận thức của nhà thơ, không gian địa lí, địa danh, hình hài của đất nước được tạo nên từ chính những điều gần gũi, thiêng liêng nhất bởi đó là sự hóa thân của nhân dân Hòn Vọng Phu được làm nên từ nỗi nhớ chồng của người vợ, tình yêu thủy chung của cặp vợ chồng làm nên hòn Trống Mái, đó còn là những địa danh được làm nên từ truyền thống chống giặc hào hùng, bất khuất “gót ngựa Thánh Gióng” từ nền văn hóa đậm đà của dân tộc “chín mươi chín con voi”. Nhân dân, những con người bình dị cùng nhau sinh sống trong đất nước, đó là những con người vô danh nhưng những con người vô danh ấy đã cùng nhau gây dựng nên cái hữu danh của đất nước. Mỗi người đều lặng lẽ góp phần làm nên vẻ đẹp, sự kì thú của thiên nhiên cũng như làm phong phú hơn cho những truyền thống văn hóa của đất nước. “ Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút, non Nghiên Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm” Đất nước là hóa thân, hình ảnh của nhân dân, những con người vô danh nhưng lại có thể làm nên hình hài, diện mạo cho đất nước. Không chỉ hướng ngòi bút đến sự trù phú, tươi đẹp của thiên nhiên đất nước mà tác giả Nguyễn Khoa Điềm còn thể hiện sự suy ngẫm mang tính triết lí sâu sắc về vẻ đẹp tâm hồn của con người, kịch sử Việt Nam. Đó là truyền thống hiếu học, là tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất của của những con người Việt Nam để làm nên những truyền thống hào hùng, đáng tự hào của dân tộc. “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” Từ những cuộc đời, những hóa thân cụ thể, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những nhận thức sâu sắc hơn về mối quan hệ gắn bó giữa thiên nhiên và con người, giữa đất nước với nhân dân. Cũng qua khổ thơ, tác giả đã bộc lộ được niềm tự hào khôn xiết trước vẻ đẹp của thiên nhiên, vóc dáng, dáng hình của quê hương và những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc. Đó còn là thái độ yêu thương, trân trọng, tự hào trước những đóng góp lớn lao của thế hệ cha ông đi trước. Đất nước là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất chính luận trữ tình và chất suy tưởng mang đến những giá trị tư tưởng đặc sắc cho tác phẩm. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng linh hoạt chất liệu dân gian, đưa vào những yếu tố văn hóa đậm nét, nổi bật để thể hiện những cảm nhận độc đáo về đất nước. Đoạn thơ đã thể hiện được tư tưởng đất nước của nhân dân của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, đây cũng là đóng góp mới lạ, độc đáo về chủ đề đất nước. Đất nước đã mang đến cho người đọc bao cảm xúc tự hào, khơi dậy ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với đất nước. Bạn đang xem Top 9 mẫu phân tích khổ cuối Đất nước những người vợ nhớ chồng chọn lọc nhất tại thể bạn quan tâm Xem Ngay Top 20+ những bài thơ hay về mùa xuân [Triệu View] Gợi Ý Top 18 những bài hát hay karaoke [Hay Nhất] Xem Ngay Top 10+ những phim đánh nhau hay nhất [Hay Nhất] Rất Hay Top 20+ những kiểu chữ sáng tạo [Quá Ok Luôn] Gợi Ý Top 16 những bà nội trợ kiểu mỹ phần 1 [Đánh Giá Cao] Thông qua các mẫu phân tích những người vợ nhớ chồng trong bài thơ Quốc gia của Nguyễn Khoa Điềm nhưng chúng tôi đã tổng hợp, kỳ vọng sẽ giúp các em học trò có thêm nhiều ý tưởng lúc phân tích khổ cuối bài Quốc gia hay nhất, đạt điểm tối đa trong các kì thi. Tuyển chọn 9 mẫu phân tích Quốc gia những người vợ nhớ chồng hay và rực rỡ nhất được bài viết tổng hợp một cách đầy đủ. Giúp các em học trò trau dồi tri thức và thông minh trong việc phân tích khổ cuối Quốc gia. Tham khảo ngay dưới đây. Dàn ý phân tích khổ cuối Quốc gia I/ Mở bài – Giới thiêu tác giả, tác phẩm – Giới thiệu đoạn thơ “ Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi vọng phu, … Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”. II/ Thân bài 1. Trước hết, tác giả nêu ra một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu địa lí về những danh lam thắng cảnh trên khắp các miền tổ quốc. – Thi sĩ đã kể, liệt kê một loạt kì quan tự nhiên trải dài trên lãnh thổ từ Bắc vào Nam như muốn phác thảo tấm bản đồ văn hóa tổ quốc. Đây là những danh lam thắng cảnh do bàn tay tự nhiên kiến tạo nhưng từ bao đời nay, ông cha ta đã phủ cho nó tính cách, tâm hồn, lẽ sống của dân tộc. – Trong thực tiễn, bao thế hệ người Việt đã tạc vào núi sông vẻ đẹp tâm hồn mến thương thủy chung để ta có những “núi Vọng Phu”, những “hòn Trống mái” như những biểu tượng văn hóa. Hay vẻ đẹp lẽ sống người hùng của dân tộc trong buổi đầu giữ nước để ta có những “ao đầm”… như những di tích lịch sử về quá trình dựng nước và giữ nước hào hùng… → Tự nhiên được cảm nhận thông qua những tình cảnh, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những con người ko tên, ko tuổi. 2. Tự nhiên tổ quốc, qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân – Chính nhân dân đã tạo dựng nên tổ quốc này, đã đặt tên, ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này. Từ những hình ảnh, những cảnh vật, hiện tượng cụ thể, thi sĩ đã “quy nạp” thành một nói chung thâm thúy. “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ước ao, một lối sống ông chaÔi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hóa núi sông ta…”. III/ Kết bài – Nói chung lại trị giá nội dung và trị giá nghệ thuật của đoạn thơ. Phân tích Quốc gia những người vợ nhớ chồng – Mẫu 1 Con người Việt Nam ta từ xưa tới nay ý thức yêu nước, lòng dũng cảm luôn chảy trong dòng máu, sẵn sàng đấu tranh, hi sinh để bảo vệ độc lập tự do cho Tổ quốc. Trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ gian nan, có biết bao nhiêu bài thơ, bài văn ra đời để khích lệ ý thức đấu tranh cho quân và dân ta ngoài mặt trận. Một trong số các tác phẩm khơi gợi lòng yêu nước đó ko thể ko kể tới Trường ca Mặt đường khát vọng của tác giả Nguyễn Khoa Điềm nhưng nổi trội là đoạn trích Quốc gia. Qua đoạn trích, tác giả đã khẳng định tư tưởng tổ quốc là của nhân dân. Nguyễn Khoa Điềm được biết tới là thi sĩ với phong cách trữ tình chính luận lạ mắt. Thơ Nguyễn Khoa Điềm thu hút, thu hút người đọc bởi sự đan kết xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng của một thanh niên tri thức tự ý thức thâm thúy về vai trò, trách nhiệm của mình trong trận đấu đấu vì tổ quốc và nhân dân. “Trường ca Mặt đường khát vọng” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ văn của ông. Đoạn trích Quốc gia thuộc chương V của bản Trường ca mang tới cho độc giả cái nhìn mới mẻ về hình hài của Quốc gia. Tuy nhiên, tác giả cũng ngầm khẳng định Quốc gia là của nhân dân. “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu….………………………………………Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…” Nguyễn Khoa Điềm thật khôn khéo và tinh tế lúc đã vận dụng thông minh thành công chất liệu dân gian vào bài thơ của mình để tạo nét riêng lẻ ko thể nhầm lẫn. Đó là sự tích hòn Vọng Phu nói về tình cảm thủy chung, son sắt chờ chồng tới hóa đá của người phụ nữ. Đó là tình hòn Trống Mái gắn với truyền thuyết tình cảm vợ chồng chung tình. Dù ở bất kỳ nơi nào trên tổ quốc, cương vực này thì tình cảm mến thương, gắn bó vợ chồng vẫn là những tình cảm vô cùng tốt đẹp xứng đáng được tôn vinh. Ko chỉ có tình yêu lứa đôi, tình cảm vợ chồng, Nguyễn Khoa Điềm còn tôn vinh cả nền lịch sử với lòng yêu nước nồng nàn của dân tộc ta. Đó là vị người hùng Thánh Gióng nhỏ tuổi nhưng lúc có giặc quả cảm ra trận đánh đuổi giặc Ân lấy lại độc lập cho nước nhà. Đó là mảnh đất Tổ thờ vua Hùng vô cùng linh thiêng với sự quây quần của đàn voi chín mươi chín con. Tất cả những câu chuyện, những sự tích, truyền thuyết trên đều rất thân thuộc với mỗi thế hệ con dân trên Quốc gia này, trở thành niềm tự hào vô bờ bến của chúng ta. Chúng ta có thể tự hào rằng Quốc gia này là tổ quốc của những con người hiếu học. Biết bao tấm gương nghèo vượt khó vươn lên trở thành thiên tài cho tổ quốc, ghi lại công lao của mình bằng những núi Bút, non Nghiên. Dù họ là những người nổi tiếng hay chỉ là những con người vô danh thì họ cũng đáng để chúng ta hàm ơn, học tập và noi theo. Quốc gia còn được tạo nên từ những điều hết sức nhỏ nhỏ những quả núi hình con cóc, con gà quây quần cũng tạo điều kiện cho Hạ Long trở thành di sản toàn cầu. Những ngọn núi khác cũng được đặt theo tên của các vị người hùng để con cháu ngày mai ko quên ơn họ và tôn vinh những trị giá quý báu nhưng họ đã gây dựng cho nước nhà. Những ao đầm, gò bãi là sự hóa thân của những con người làm nên Đất Nước. Ở trên tổ quốc này đâu đâu cũng mang dáng dấp, những kỉ niệm của thế hệ ông cha. Hành trình hơn bốn nghìn năm lịch sử vẫn sẽ tiếp tục mãi mãi và cũng sẽ có nhiều hơn những kỉ niệm, những giai thoại được ghi vào sử sách. Tuy nhiên, ko vì thế nhưng lối sống ông cha đi vào quá khứ, nó mãi là những tiếng âm vang, là niềm tự hào của con cháu sau này. Nhiều năm tháng qua đi nhưng đoạn thơ cùng với trường ca “Mặt đường khát vọng” vẫn giữ nguyên vẹn những trị giá tốt đẹp thuở đầu của nó và để lại ấn tượng xinh xắn, đọng lại trong tâm tư của bao thế hệ con người Việt Nam trước đây, hiện thời và cả sau này. Bản trường ca của tác giả Nguyễn Khoa Điềm làm ta thêm hiểu và yêu Quốc gia đồng thời thôi thúc bản thân hành động để bảo vệ và tăng trưởng tổ quốc này. Phân tích Quốc gia những người vợ nhớ chồng – Mẫu 2 Tình yêu tha thiết của Lênin dành cho nước Nga cũng là tiếng lòng của biết bao nhiêu nghệ sĩ khắp dải đất Việt Nam. Cùng trình bày tình yêu quê hương, tổ quốc sâu nặng nhưng mỗi thi sĩ lại có tiếng nói riêng lạ mắt. Trường ca “Mặt đường khát vọng” với “Đất Nước” đã đưa chúng ta tới một Đất Nước giản dị nhưng rất đỗi đời thường – Đất Nước của nhân dân. Với một lối đi cho riêng mình, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện thâm thúy về địa lí, lịch sử, văn hóa của Đất Nước Những người vợ nhớ chồng còn góp cho những núi Vọng Phu………………………………………………………Những cuộc đời đã hóa núi sông ta… San sẻ về ý tưởng đoạn trích Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm từng khẳng định Tôi nỗ lực … khác. Quả đúng tương tự, khám phá vẻ đẹp của Đất Nước trong ko gian mênh mông, Nguyễn Khoa Điềm ko ngừng lại ngợi ca núi sông hùng vĩ nhưng thơ mộng với rừng xanh đồi cọ đồi chè, đồng xanh ngạt ngào, biển lúa mênh mông, cánh cò dập dờn… như Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi và bao thi sĩ khác. Với một lối đi riêng, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới mẻ thâm thúy. Nguyễn Khoa Điềm đã bao quát chiều dài, chiều rộng của Đất Nước, từ bắc chí nam, từ miền ngược tới miền xuôi, từ núi rừng tới đại dương, tự hào về bao danh lam thắng cảnh của Đất Nước như núi vọng phu, hòn Trống Mái, vịnh Hạ Long, đất Tổ Hùng Vương và bao địa danh mang tên ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm. Những người vợ nhớ chồng còn góp cho những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳmNgười học trò nghèo góp cho Đất Nước núi Bút, non NghiênCon có, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm Thực chất những danh thắng đó là kết quả của quá trình vận động địa chất, kiến tạo địa lí từ hàng nghìn, hàng vạn năm chứ. Ko khám phá dưới góc độ khoa học, với suy từ thâm thúy, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới mẻ về những danh lam thắng cảnh đó. Những núi vọng phu trải dài từ Bắc vào Nam, từ đỉnh Lũng Cú xuống mũi Cà Mau chính là sự hóa thân của những người vợ, người chồng. Tấm lòng thủy chung son sắt của người phụ nữ Việt đã tạo nên dáng núi kì lạ đó. Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn, vịnh Hạ Long ở Quảng Ninh là biểu tượng xinh xắn cho tình yêu thắm thiết nồng nàn. Một kẻ trần thế, một người cõi tiên bất chấp quy tắc thiên tào, nguyện hóa đá để muôn thuở ở mãi bên nhau. Những ao đầm dày đặc ở vùng đất Sóc Sơn là những hình ảnh bất tử về ý thức yêu nước nồng nàn, khí phách kiên cường quật cường của những người dân đất Việt. Ko có ý thức kết đoàn một lòng tất ko thể có Tổ quốc linh thiêng, hùng vĩ. Ko có ý thức vượt khó, hiếu học, ko có núi bút non Nghiên. Và bất kỳ danh lam thắng cảnh nào trên dải đất hình chữ S cũng là máu thịt của nhân dân. Vậy là mọi danh lam thắng cảnh đều là kết quả của sự hóa thân kì diệu, của bao thế hệ nhân dân lao động. Mỗi hình sông dáng núi, bóng đèo đều in dấu dáng hình, tâm tư tình cảm, ước ao, khát vọng, tính cách, phẩm chất của những con người Đất Việt. Mỗi danh lam là một bức tượng đài bất tử về vẻ đẹp tâm hồn người Việt. Ngợi ca núi sông hùng vĩ, diễm lệ thực chất là ngợi ca, tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân. Ko có nhân dân bao đời với tâm hồn cao quý, khát vọng lãng mạn thì ko có những thắng cảnh kì thú để con cháu đời đời kiếp kiếp chiêm ngưỡng. Từ những khám phá mới mẻ, với những danh lam thắng cảnh cụ thể, nổi tiếng của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã đi tới những nói chung tính chiết luận Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng màng một dáng hình, một ước ao, một lối sống ông chaÔi Đất Nước sau bốn nghìn năm ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hóa núi sông ta… Đâu chỉ có những địa danh như núi vọng phu, hòn Trống Mái, sự hóa thân kì diệu của nhân dân nhưng tất cả ruộng đồng, đồi nương, gò bãi đều in dáng hình, bàn tay, khối óc, ước mơ, khát vọng, lối sống của ông cha ta. Ngẫm về công lao to lớn của nhân dân, về truyền thống của ông cha thuở trước, Nguyễn Khoa Điềm ko khỏi rưng rưng bổi hổi xúc động, rộn rực niềm mến yêu, tự hào. Thán từ “ôi” và dấu ba chấm cuối đoạn đã truyền tới người đọc nguyên vẹn xúc cảm đó. Khúc thơ tiêu biểu cho vẻ đẹp của thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ở đây có sự liên kết thuần thục giữa tính chính luận và chất trữ tình, giữa thế núi kì thú và Nguyễn Khoa Điềm đã cắt những câu hỏi đó bằng suy từ lắng của mình, bằng những hình ảnh giàu chất thơ. Mạch thơ trình bày rõ tư duy logic, đi từ cụ thể tới nói chung, một cách nói chung đầy xúc cảm, rưng rưng xúc động. Đoạn thơ cũng đầy ắp chất liệu văn học dân gian. Đó là những sự tích huyền thoại, truyền thuyết. Chính chất liệu dân gian lạ mắt, mới mẻ đó đã mở ra một toàn cầu vừa bình dị, mộc mạc, vừa thiêng liêng bay bổng. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân thực ra đã có một quá trình tăng trưởng trong lịch sử dân tộc nói chung, văn học nói riêng. Những nhà văn lớn, nhà tư tưởng lớn của dân tộc đã từng nói lên vai trò của nhân dân như Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu,… Tới thời đoạn văn học cách mệnh, tư tưởng của nhân dân một lần nữa được nhận thức thâm thúy thêm bởi vai trò và đóng góp to lớn của nhân dân trong vô vàn những cuộc đấu tranh thảm khốc. Điều này được trình bày qua một số cây bút tiêu biểu như Đất Nước Nguyễn Đình Thi, Đường tới thành thị Hữu Thỉnh,… Tuy nhiên, chỉ lúc tới “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm, tư tưởng của nhân dân mới trở thành cảm hứng chủ đạo. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân đã trở thành hệ quy chiếu khiến thi sĩ có những khám phá mới mẻ, thâm thúy về Đất Nước qua ko gian địa lí, thời kì lịch sử và chiều sâu văn hóa. Đặc thù, Đất Nước của nhân dân đã vang lên thành lời thành tiếng Để Đất Nước là Đất Nước của nhân Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại. Thành công của đoạn trích Đất Nước là Nguyễn Khoa Điềm đã tạo ra một ko khí, một giọng điệu, đưa ta vào toàn cầu thân thiện của ca dao dân ca, truyền thuyết văn hóa. Đó chính là nét rực rỡ thẩm mỹ, thống nhất với tư tưởng “Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của da dao thần thoại”. Đoạn thơ trên đây tiêu biểu cho cái hay, cái đẹp của hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ở đây có sự liên kết thuần thục giữa tính chính luận và trữ tình, suy tư sâu lắng và xúc cảm nồng nàn. Chất liệu văn hóa dân gian được vận dụng thông minh. Qua hình tượng Đất Nước nhưng thi sĩ ngợi ca tâm hồn nhân dân, khẳng định nòi giống nhưng dáng đứng Việt Nam. Nhân dân là chủ Đất Nước, Đất Nước là của nhân dân. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân thực ra đã có một quá trình tăng trưởng trong lịch sử dân tộc nói chung, văn học nói riêng. Những nhà văn lớn, nhà tư tưởng lớn của dân tộc đã từng nói lên vai trò của nhân dân như Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu,… Tới thời đoạn văn học cách mệnh, tư tưởng của nhân dân một lần nữa được nhận thức thâm thúy thêm bởi vai trò và đóng góp to lớn của nhân dân trong vô vàn những cuộc đấu tranh thảm khốc. Điều này được trình bày qua một số cây bút tiêu biểu như Đất Nước Nguyễn Đình Thi, Đường tới thành thị Hữu Thỉnh,… Tuy nhiên, chỉ lúc tới “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm, tư tưởng của nhân dân mới trở thành cảm hứng chủ đạo. Phân tích khổ cuối bài thơ Quốc gia – Mẫu 3 Nền văn học Việt Nam đã ghi danh tên tuổi của bao nhà văn, thi sĩ, trong đó ko thể ko nhắc tới tác giả Nguyễn Khoa Điềm cùng bản Trường ca Mặt đường khát vọng. Nổi trội trong bản trường ca là văn bản Quốc gia. Ở đây, tác giả đã khẳng định tư tưởng tổ quốc là của nhân dân “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu ….……………………………………… Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…” Nguyễn Khoa Điềm thật khôn khéo và tinh tế lúc đã vận dụng thông minh thành công chất liệu dân gian vào bài thơ của mình để tạo nét riêng lẻ ko thể nhầm lẫn. Đó là sự tích hòn Vọng Phu nói về tình cảm thủy chung, son sắt chờ chồng tới hóa đá của người phụ nữ. Đó là tình hòn Trống Mái gắn với truyền thuyết tình cảm vợ chồng chung tình. Dù ở bất kỳ nơi nào trên tổ quốc, cương vực này thì tình cảm mến thương, gắn bó vợ chồng vẫn là những tình cảm vô cùng tốt đẹp xứng đáng được tôn vinh. Ko chỉ có tình yêu lứa đôi, tình cảm vợ chồng, Nguyễn Khoa Điềm còn tôn vinh cả nền lịch sử với lòng yêu nước nồng nàn của dân tộc ta. Đó là vị người hùng Thánh Gióng nhỏ tuổi nhưng lúc có giặc quả cảm ra trận đánh đuổi giặc Ân lấy lại độc lập cho nước nhà. Đó là mảnh đất Tổ thờ vua Hùng vô cùng linh thiêng với sự quây quần của đàn voi chín mươi chín con. Tất cả những câu truyện, những sự tích, truyền thuyết trên đều rất thân thuộc với mỗi thế hệ con dân trên Quốc gia này, trở thành niềm tự hào vô bờ bến của chúng ta. Chúng ta có thể tự hào rằng Quốc gia này là tổ quốc của những con người hiếu học. Biết bao tấm gương nghèo vượt khó vươn kên trở thành thiên tài cho tổ quốc, ghi lại công lao của mình bằng những núi Bút, non Nghiên. Dù họ là những người nổi tiếng hay chỉ là những con người vô danh thì họ cũng đáng để chúng ta hàm ơn, học tập và noi theo. Quốc gia còn được tạo nên từ những điều hết sức nhỏ nhỏ những quả núi hình con cóc, con gà quây quần cũng tạo điều kiện cho Hạ Long trở thành di sản toàn cầu. Những ngọn núi khác cũng được đặt theo tên của các vị người hùng để con cháu ngày mai ko quên ơn họ và tôn vinh những trị giá quý báu nhưng họ đã gây dựng cho nước nhà. Những ao đầm, gò bãi là sự hóa thân của những con người làm nên Đất Nước. Ở trên tổ quốc này đâu đâu cũng mang dáng dấp, những kỉ niệm của thế hệ ông cha. Hành trình hơn bốn nghìn năm lịch sử vẫn sẽ tiếp tục mãi mãi và cũng sẽ có nhiều hơn những kỉ niệm, những giai thoại được ghi vào sử sách. Tuy nhiên, ko vì thế nhưng lối sống ông cha đi vào quá khứ, nó mãi là những tiếng âm vang, là niềm tự hào của con cháu sau này. Nhiều năm tháng qua đi nhưng đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung vẫn để lại những ấn tượng thâm thúy trong lòng độc giả và giữ nguyên vẹn những trị giá tốt đẹp trường tồn với thời kì và giữ nguyên vẹn những trị giá tốt đẹp thuở đầu của nó. Tham khảo thêm Top 30+ mẫu kết bài Quốc gia của Nguyễn Khoa Điềm siêu hay và ngắn gọn Bài văn mẫu Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân đã được trình bày như thế nào qua bài thơ Quốc gia lớp 12 Nguyễn Khoa Điềm là gương mặt thi sĩ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Viết về cuộc kháng chiến bằng những trải nghiệm chân thực với hồn thơ giàu chất suy tư, lắng đọng, Nguyễn Khoa Điềm đã trình bày được tình yêu nước, tâm tư của người trí thức tích cực tham gia vào trận đấu đấu của nhân dân. “Quốc gia” là đoạn trích rực rỡ trích trong tác phẩm trường ca Mặt đường khát vọng, tác phẩm trình bày rõ nét tài năng và tâm huyết của Nguyễn Khoa Điềm. Qua bài thơ tác giả đã trình bày được những cảm nhạn riêng lẻ nhưng vô cùng lạ mắt và tổ quốc. Trong bài thơ Quốc gia, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã trình bày được cái nhìn thâm thúy lúc phát xuất hiện những biểu lộ đầy mới mẻ của khái niệm “tổ quốc”. Trước hết, đó chính là những phát hiện mới mẻ về phương diện ko gian địa lí của tổ quốc “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước nhưng núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương” Trong nhận thức của thi sĩ, ko gian địa lí, địa danh, hình hài của tổ quốc được tạo nên từ chính những điều thân thiện, thiêng liêng nhất bởi đó là sự hóa thân của nhân dân Hòn Vọng Phu được làm nên từ nỗi nhớ chồng của người vợ, tình yêu thủy chung của cặp vợ chồng làm nên hòn Trống Mái, đó còn là những địa danh được làm nên từ truyền thống chống giặc hào hùng, quật cường “gót ngựa Thánh Gióng” từ nền văn hóa đặm đà của dân tộc “chín mươi chín con voi”. Nhân dân, những con người bình dị cùng nhau sinh sống trong tổ quốc, đó là những con người vô danh nhưng những con người vô danh đó đã cùng nhau gây dựng nên cái hữu danh của tổ quốc. Mỗi người đều lặng lẽ góp phần làm nên vẻ đẹp, sự kì thú của tự nhiên cũng như làm phong phú hơn cho những truyền thống văn hóa của tổ quốc. “ Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo góp cho Quốc gia mình núi Bút, non Nghiên Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm” Quốc gia là hóa thân, hình ảnh của nhân dân, những con người vô danh nhưng lại có thể làm nên hình hài, dung mạo cho tổ quốc. Ko chỉ hướng ngòi bút tới sự trù phú, tươi đẹp của tự nhiên tổ quốc nhưng tác giả Nguyễn Khoa Điềm còn trình bày sự suy ngẫm mang tính triết lí thâm thúy về vẻ đẹp tâm hồn của con người, kịch sử Việt Nam. Đó là truyền thống hiếu học, là ý thức đấu tranh kiên cường, quật cường của của những con người Việt Nam để làm nên những truyền thống hào hùng, đáng tự hào của dân tộc. “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ước ao, một lối sống ông cha Ôi tổ quốc sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” Từ những cuộc đời, những hóa thân cụ thể, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã trình bày những nhận thức thâm thúy hơn về mối quan hệ gắn bó giữa tự nhiên và con người, giữa tổ quốc với nhân dân. Cũng qua khổ thơ, tác giả đã bộc lộ được niềm tự hào khôn xiết trước vẻ đẹp của tự nhiên, vóc dáng, dáng hình của quê hương và những trị giá truyền thống quý báu của dân tộc. Đó còn là thái độ mến thương, trân trọng, tự hào trước những đóng góp lớn lao của thế hệ ông cha đi trước. Quốc gia là sự liên kết thuần thục giữa chất chính luận trữ tình và chất suy tưởng mang tới những trị giá tư tưởng rực rỡ cho tác phẩm. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng linh hoạt chất liệu dân gian, đưa vào những yếu tố văn hóa đậm nét, nổi trội để trình bày những cảm nhận lạ mắt về tổ quốc. Đoạn thơ đã trình bày được tư tưởng tổ quốc của nhân dân của thi sĩ Nguyễn Khoa Điềm, đây cũng là đóng góp mới lạ, lạ mắt về chủ đề tổ quốc. Quốc gia đã mang tới cho người đọc bao xúc cảm tự hào, khơi dậy ý thức trách nhiệm của mỗi tư nhân đối với tổ quốc. Phân tích đoạn thơ những người vợ nhớ chồng – Mẫu 5 Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ những thi sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Trường ca Mặt đường khát vọng là tác phẩm thâm thúy, mang vẻ lạ mắt của ông được sáng tác vào năm 1971 tại núi rừng chiến khu Trị – Thiên. Bài Đất Nước là chương V của trường ca này. Tác giả đã sử dụng một cách thông minh các chất liệu – thi liệu từ tục ngữ, ca dao dân ca, từ truyền thuyết cổ tích tới phong tục, tiếng nói, của nền văn hóa dân tộc để khơi nguồn cảm hứng về Đất Nước, một Đất Nước có xuất xứ lâu đời, một Quốc gia của Nhân dân vĩnh hằng muôn thuở. Đoạn thơ 12 câu này trích trong phần II bài Đất Nước đã ngợi ca Đất Nước hùng vĩ, tự hào khẳng định những phẩm chất cao đẹp của nhân dân ta, dân tộc ta. Câu thơ mở rộng tới 13, 14, 15 từ, nhưng vẫn thanh thoát, nhịp nhàng, giàu âm điệu và nhạc điệu gợi cảm Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu … Những cuộc đời đã hóa núi sông ta. Tám câu thơ đầu nói về tượng hình Đất Nước, một Đất Nước hùng vĩ, một giang sơn gấm vóc. Khắp nơi trên mọi miền Đất Nước ta, ở đâu cũng có những danh lam thắng cảnh. Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái đã đi vào huyền thoại cổ tích. Nguyễn Khoa Điềm đã có một cái nhìn khám phá, nhân văn. Núi đó, hòn đó là do “những người vợ nhớ chồng”, hoặc “cặp vợ chồng yêu nhau” nhưng đã “góp cho”, đã “góp nên”, làm đẹp thêm, tô điểm thêm Đất Nước. Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp thêm hòn Trống Mái Núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định… hòn Trống Mái ở sầm Sơn ko chỉ là vẻ đẹp tự nhiên nhưng còn là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Vợ có “nhớ chồng”, cặp vợ chồng có “yêu nhau” thì mới “góp cho Đất Nước”, mới “góp nên” những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái đó. Tình yêu lứa đôi có thắm thiết, tình nghĩa vợ chồng có thủy chung thì Đất Nước mới có tượng hình kì thú đó. Tác giả đã vượt lên lối liệt kê tầm thường để có một cách nhìn, một cách diễn tả mới mẻ, nhân văn. Hai câu thơ tiếp theo ngợi ca vẻ đẹp Đất Nước về mặt lịch sử và truyền thống. Cái “gót ngựa của Thánh Gióng đó để lại” cho Đất Nước ta bao ao đầm ở vùng Hà Bắc ngày nay! Chín mươi chín núi con Voi ở Phong Châu đã quần tụ, chung sức chung lòng “góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”. Các từ ngữ “đi qua còn… để lại”, “góp mình dựng” đã thế hiện một cách bình dị nhưng tự hào về sự thiêng liêng của Tổ quốc, về khí phách người hùng, sức mạnh đại kết đoàn dân tộc của nhân dân ta trong xây dựng và bảo vệ Đất Nước Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương. Đất Nước ta có núi cao, biển rộng, sông dài. Có sông Hồng Hà “đỏ nặng phù sa”. Có sông Mã “bờm ngựa phi thác trắng”. Và còn có Cửu Long Giang với dáng hình thơ mộng, ôm ấp huyền thoại kiêu sa Những con rống nằm im góp dòng sông xanh thẳm. Rồi “nằm im” từ bao đời nay nhưng Nam Bộ mến yêu có “dòng sông xanh thẳm’’ cho quê hương nhiều nước ngọt phù sa, nhiều tôm cá, mênh mông bỉển lúa bốn mùa. Phải chăng thi sĩ trẻ qua vẻ đẹp dòng sông Chín Rồng đế ngợi ca giang sơn gấm vóc, con người Việt Nam rất đỗi tài hoa? Quảng Nam, Quáng Ngãi quê hương của Hoàng Diệu, Phan Châu Trinh Huỳnh Thúc Kháng., có núi An sông Đà, có núi Bút non Nghiên. Ngắm núi Bút non Nghiên, Nguyễn Khoa Điềm khoong nghĩ về địa linh anh tài nhưng nghĩ về người học trò nghèo về truyền thống hiếu học về tấm lòng tôn sư trọng đạo của nhân dân ta. Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên. “nghèo” nhưng vẫn góp cho Đất Nước ta núi Bút non Nghiên, làm rạng rỡ nền ăn hiến Đại Việt..nghèo vật chất nhưng giàu trí tuệ tài năng. Hạ Long trở thành kì quan, thắng cảnh là nhờ có “con cóc, con gà quê hương cùng góp cho”. Và những tên làng, tên núi, tên sông như Ông Đốc, Ông Trang. Bà Đen, Bà Điểm… ở vùng cực Nam Đất Nước xa xôi đã do “những ngườ dân nào đã góp tên”, đã đem mồ hôi, xương máu bạt rừng, lấn biển, đào bắt sấu, bộ hổ… làm nên? Thi sĩ đã có một cách nói bình dị nhưng thấm thía ngợi ca đức tính chịu khó, siêng năng, dũng cảm trong lao động thông minh của nhân dân ta, khẳng định nhân dân vô cùng lớn lao, người chủ sở hữu đã “làm nên Đất Nước muôn thuở”. Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Ba Đen, Bà Điểm. Tám câu thơ với bao địa danh và cổ tích huyền thoại được thi sĩ nói tới trình bày niềm tự hào và hàm ơn Đất Nước cùng Nhân Dân. Các thi liệu – hình ảnh người vợ, cặp vợ chồng, gót ngựa, 99 con voi, con rồng, người học trò . con cóc con gà, những người dân nào… dưới ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm mang ý nghĩa tượng trưng cho tâm hồn trung hậu, cho trí tuệ và tài năng đức tính chịu khó và ý thức dũng cảm., của nhân dân ta qua trường kì lịch sử. Chính nhân dân lớn lao đã “góp cho”, “góp nên”, “để lại”, “góp mình”, “đã góp tên”… đã làm cho Đất Nước ngày thêm giàu đẹp. Thi sĩ mang lại cho những động từ – vị ngữ đó góp cho, góp nên… nhiều ý thơ mới mẻ. nhiều sắc thái biểu cảm với bao liên tưởng đầy tính nhân văn như thi sĩ Chế Lan Viên đã viết Tâm hồn tôi lúc Tổ quốc soi vào Thấy nghìn núi trăm sông diễm lệ. Chim lượn trăm vòng Bốn câu thơ cuối đoạn, giọng thơ vang lên say đắm ngọt ngào. Từ cụ thể thơ được nâng lên tầm nói chung,tính chính luận liên kết một cách hài hòa với chất trữ tình thắm thiết Và ở đâu trên khắp ruộng đông gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao nước, một lối sống ông cha Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hóa núi sông ta. Ruộng đồng gò bãi… là hình ảnh của quê hương tổ quốc. Những tên núi, tên sông, tên làng, tên bản, tên ruộng đồng, tên gò bãi… bất kỳ ở đâu trên đất Việt Nam thân yêu đều mang theo “một dáng hình, một ước ao, một lối sống ông cha”. Hình tượng tổ quốc cùng là điệu tâm hồn, phong cách, ước mơ, hoài bão cùa ông cha ta, tổ tiên ta mấy nghìn năm lịch sử dựng nước. “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” là một câu thơ rất hay, rất đẹp ngợi ca tâm hồn Việt Nam, nền văn hóa Việt Nam. Chữ “một” được điệp lại 3 lần, chữ “ta” được láy lại 2 lần, liên kết từ “ôi” cảm thán đã tạo nên những vần thơ du dương về nhạc điệu, nồng nàn, say đắm tự hào về xúc cảm. Vừa đĩnh đạc, hào hùng, vừa thiết tha, lắng đọng, vẻ đẹp nhân văn chan hòa trên những dòng thơ tráng lệ. Tầm vóc của Đất Nước và dân tộc được hiện diện một cách thâm thúy rộng lớn ko chỉ trên phương diện địa lí “mênh mông” nhưng còn ở dòng chảy của thời kì và lịch sử bốn nghìn năm “đằng đẵng”. Đoạn thơ trên đây tiêu biểu cho cái hay, cái đẹp của hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm trong bài Đất Nước. Câu thơ mở rộng đậm đặc chất văn xuôi. Yếu tố chính luận và chất trữ tình, chất xúc cảm hòa quyện, làm cho chất thơ dào dạt, ý tưởng thâm thúy, mới mẻ. Quốc gia hùng vĩ, nhân dân người hùng, chịu khó, hiếu học, ân hghĩa thủy chung… được thi sĩ cảm nhận với tất cả lòng yêu quý tự hào. Chất liệu văn hóa dân gian được tác giả vận dụng thông minh. Qua hình tượng tổ quốc nhưng thi sĩ ngợi ca tám hồn nhân dân, khẳng định khả năng nòi giống và dáng đứng Việt Nam. Tự nhiên tổ quốc đã được nhân dân thông minh nên. Nhân dân là chủ sở hữu của tổ quốc. Thơ thực thụ khơi gợi hồn người trở thành trong sáng, phong phú và cao thượng. Đoạn thơ như một tiếng nói tâm tình “dịu ngọt”, thi sĩ như đang hội thoại cùng ta về tổ quốc và nhân dân. Đọc lại đoạn thơ, lòng mỗi chúng ta bâng khuâng, xúc động nghĩ về hai tiếng Việt Nam thân yêu Ôi! Việt Nam! Yêu suốt một đời… Tố Hữu Phân tích khổ cuối Quốc gia – Mẫu 6 Nguyễn Khoa Điềm là gương mặt thi sĩ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ trong những năm kháng chiến chống Mỹ. Viết về cuộc kháng chiến bằng những trải nghiệm chân thực với hồn thơ giàu chất suy tư, lắng đọng, Nguyễn Khoa Điềm đã trình bày được tình yêu nước, tâm tư của người trí thức tích cực tham gia vào trận đấu đấu của nhân dân. “Quốc gia” là đoạn trích rực rỡ trích trong tác phẩm trường ca Mặt đường khát vọng, tác phẩm trình bày rõ nét tài năng và tâm huyết của Nguyễn Khoa Điềm. Qua bài thơ tác giả đã trình bày được những cảm nhận riêng lẻ nhưng vô cùng lạ mắt và tổ quốc. Trong bài thơ Quốc gia, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã trình bày được cái nhìn thâm thúy lúc phát xuất hiện những biểu lộ đầy mới mẻ của khái niệm “tổ quốc”. Trước hết, đó chính là những phát hiện mới mẻ về phương diện ko gian địa lí của tổ quốc “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước nhưng núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương” Trong nhận thức của thi sĩ, ko gian địa lí, địa danh, hình hài của tổ quốc được tạo nên từ chính những điều thân thiện, thiêng liêng nhất bởi đó là sự hóa thân của nhân dân Hòn Vọng Phu được làm nên từ nỗi nhớ chồng của người vợ, tình yêu thủy chung của cặp vợ chồng làm nên hòn Trống Mái, đó còn là những địa danh được làm nên từ truyền thống chống giặc hào hùng, quật cường “gót ngựa Thánh Gióng” từ nền văn hóa đặm đà của dân tộc “chín mươi chín con voi”. Nhân dân, những con người bình dị cùng nhau sinh sống trong tổ quốc, đó là những con người vô danh nhưng những con người vô danh đó đã cùng nhau gây dựng nên cái hữu danh của tổ quốc. Mỗi người đều lặng lẽ góp phần làm nên vẻ đẹp, sự kì thú của tự nhiên cũng như làm phong phú hơn cho những truyền thống văn hóa của tổ quốc. “Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳmNgười học trò nghèo góp cho Quốc gia mình núi Bút, non NghiênCon cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm” Quốc gia là hóa thân, hình ảnh của nhân dân, những con người vô danh nhưng lại có thể làm nên hình hài, dung mạo cho tổ quốc. Ko chỉ hướng ngòi bút tới sự trù phú, tươi đẹp của tự nhiên tổ quốc nhưng tác giả Nguyễn Khoa Điềm còn trình bày sự suy ngẫm mang tính triết lí thâm thúy về vẻ đẹp tâm hồn của con người, lịch sử Việt Nam. Đó là truyền thống hiếu học, là ý thức đấu tranh kiên cường, quật cường của của những con người Việt Nam để làm nên những truyền thống hào hùng, đáng tự hào của dân tộc. “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ước ao, một lối sống ông chaÔi tổ quốc sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hóa núi sông ta” Từ những cuộc đời, những hóa thân cụ thể, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã trình bày những nhận thức thâm thúy hơn về mối quan hệ gắn bó giữa tự nhiên và con người, giữa tổ quốc với nhân dân. Cũng qua khổ thơ, tác giả đã bộc lộ được niềm tự hào khôn xiết trước vẻ đẹp của tự nhiên, vóc dáng, dáng hình của quê hương và những trị giá truyền thống quý báu của dân tộc. Đó còn là thái độ mến thương, trân trọng, tự hào trước những đóng góp lớn lao của thế hệ ông cha đi trước. Quốc gia là sự liên kết thuần thục giữa chất chính luận trữ tình và chất suy tưởng mang tới những trị giá tư tưởng rực rỡ cho tác phẩm. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng linh hoạt chất liệu dân gian, đưa vào những yếu tố văn hóa đậm nét, nổi trội để trình bày những cảm nhận lạ mắt về tổ quốc. Đoạn thơ đã trình bày được tư tưởng tổ quốc của nhân dân của thi sĩ Nguyễn Khoa Điềm, đây cũng là đóng góp mới lạ, lạ mắt về chủ đề tổ quốc. Quốc gia đã mang tới cho người đọc bao xúc cảm tự hào, khơi dậy ý thức trách nhiệm của mỗi tư nhân đối với tổ quốc. Phân tích Quốc gia những người vợ nhớ chồng – Mẫu 7 Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiNgười học trò nghèo góp cho Quốc gia mình núi Bút non NghiênGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳmCon cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà ĐiểmVà ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ước ao, một lối sống ông chaÔi tổ quốc sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hoá núi sống ta…” Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” là tư tưởng bao trùm của chương “Đất Nước” cũng như của cả trường ca ngợi ca vai trò và sự hi sinh to lớn của nhân dân trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Đoạn thư từ câu “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu… Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…” là một trong những đoạn thơ tiêu biểu trình bày tư tưởng này. Đoạn thơ gọi tên các danh lam thắng cảnh trên khắp các miền tổ quốc, trải dài từ Bắc vào Nam. Từ Bình Định, Lạng Sơn, Thanh Hoá với núi Vọng Phu, hòn Trống Mái tới con cóc, con gà ở Hạ Long, chín mươi chín con voi về dựng đất Tổ Hùng Vương tới Đà Nẵng với núi Bút, non Nghiên, miền Nam với những cánh đồng Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm. Những thắng cảnh tự nhiên hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Những thắng cảnh này là sự hoá thân xả thân từ những gì có Từ tình yêu giữa vợ và chồng nàng Tô Thị bồng con ngóng chồng ngày đêm mòn mỏi hoá đá. Từ sự son sắt thuỷ chung tha thiết của tình yêu lứa đôi. Trong cái riêng nhất của đời sống vẫn canh cánh trong lòng tình yêu tổ quốc. Từ những hiện tượng, tự nhiên, địa lý lặng lẽ lặng lẽ như dòng sông, ao đầm tới những mảnh đất thiêng liêng như đất Tổ Hùng Vương đều có tiếng nói riêng kêu gọi hướng về cội nguồn nòi giống. Cảm động nhất là những con người, con vật quê hương đều có chung ý tưởng làm giàu đẹp sang trọng cho tổ quốc. Cả đoạn thơ như sự huy động lực lượng tối đa để kiến tạo nên một tổ quốc riêng của mình. Nguyễn Khoa Điềm hiểu tới tận cùng những ký thác nhưng lịch sử ông cha để lại. Những địa danh trên ko chỉ là tên gọi của những cảnh trí tự nhiên thuần tuý nhưng được cảm nhận thông qua tình cảnh số phận của người dân. Dáng hình Đất Nước được tạc nên từ bao mất mát, đau thương vui buồn hạnh phúc… của nhân dân. Chính họ đã đặt tên, ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất. Từ những hình ảnh, cảnh vật, hiện tượng cụ thể thi sĩ đúc kết thành một nói chung thâm thúy “Và đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình… núi sông ta” Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” chi phối cách nhìn của thi sĩ lúc nghĩ về lịch sử 4000 năm của tổ quốc ko nói tới các triều đại hay những người người hùng được lưu danh nhưng ngợi ca người dân- những con người vô danh giản dị nhưng phi thường “Họ đã sống và chếtGiản dị và bình tâmKo người nào nhớ mặt đặt tênChính họ đã làm ra Đất Nước” Mạch xúc cảm dồn tụ dần và kết thúc bật lên tư tưởng chủ đạo của cả chương thơ và bản trường ca “Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dânĐất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” Tư tưởng chủ đạo của chương được trình bày bằng hình thức trữ tình chính luận. Nguyễn Khoa Điềm đưa ra để thuyết phục người đọc thật giản dị chính người dân – những con người vô danh đã kiến tạo và bảo vệ Đất Nước, xây dựng truyền thống văn hóa lịch sử nghìn đời. Phép tắc đó ko phát biểu một cách khô khan nhưng bằng hình ảnh gợi cảm, giọng thơ sôi nổi tha thiết. Qua những vần thơ liên kết giữa xúc cảm và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh ý thức ý thức dân tộc, tình cảm gắn bó với người dân, tổ quốc của thế hệ trẻ thời kỳ chống Mỹ. Đoạn thơ trên đã trình bày rõ quan niệm “Đất Nước của nhân dân”- tư tưởng chủ đạo, tạo nên cảm hứng bao trùm, mở ra những khám phá sâu và mới của thi sĩ về Đất Nước ngay cả ở những chỗ đã rất thân thuộc. Quan niệm đó thực ra đã có ngọn nguồn từ trong dòng tư tưởng và văn học truyền thống của dân tộc ta. Nhưng tới thời hiện đại, tư tưởng đó lại càng trở thành thâm thúy và được trình bày phong phú trong thơ ca. Tham khảo thêm Những bài văn hay Phân tích 9 câu đầu bài thơ Quốc gia của Nguyễn Khoa Điềm lớp 12 Những bài văn mẫu Phân tích bài thơ Quốc gia của Nguyễn Khoa Điềm lớp 12 hay nhất Phân tích khổ cuối bài thơ Quốc gia – Mẫu 8 Ôi! Nếu thiên thần lên tiếng gọiBỏ nước Nga lên sống ở thiên đườngTôi sẽ đáp thiên đường xin để đấyCho tôi ở cùng Tổ quốc mến thương Tình yêu tha thiết của Ênixin dành cho nước Nga cũng là tiếng lòng của biết bao nhiêu nghệ sĩ khắp dải đất Việt Nam. Cùng trình bày tình yêu quê hương, đât nước sâu nặng nhưng mỗi thi sĩ lại có tiếng nói riêng lạ mắt. Trường ca “Mặt đường khát vọng” với “Đất Nước” đã đưa chúng ta tới một Đất Nước giản dị nhưng rất đỗi đời thường – Đất Nước của nhân dân. Với một lối đi cho riêng mình, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện thâm thúy về địa lí, lịch sử, văn hóa của Đất Nước Những người vợ nhớ chồng còn góp cho những núi Vọng Phu………………………………………………………Những cuộc đời đã hóa núi sông ta… San sẻ về ý tưởng đoạn trích Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm từng khẳng định Tôi nỗ lực… khác. Quả đúng tương tự, kháp phá vẻ đẹp của Đất Nước trong ko gian mênh mông, Nguyễn Khoa Điềm ko ngừng lại ngợi ca núi sông hùng vĩ nhưng thơ mộng với rừng xanh đồi cọ đồi chè, đồng xanh ngạt ngào, biển lúa mênh mông, cánh cò dập dờn… như Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi và bao thi sĩ khác. Với một lối đi riêng, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới mẻ thâm thúy. Nguyễn Khoa Điềm đã bao quát chiều dài, chiều rộng của Đất Nước, từ bắc chí nam, từ miền ngược tới miền xuôi, từ núi rừng tới đại dương, tự hào về bao danh lam thắng cảnh của Đất Nước như núi vọng phu, hòn Trống Mái, vịnh Hạ Long, đất Tổ Hùng Vương và bao địa danh mang tên ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm. Những người vợ nhớ chồng còn góp cho những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng VươngNhững con rồng năm in góp dòng sông xanh thẳmNgười học trò nghèo góp cho Đất Nước núi Bút, non NghiênCon có, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm Thực chất những danh thắng đó là kết quả của quá trình vận động địa chất, kiến tạo địa lí từ hàng nghìn, hàng vạn năm chứ. Ko khám phá dưới góc độ khoa học, với suy từ thâm thúy, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới mẻ về những danh lam thắng cảnh đó. Những núi vọng phu trải dài từ Bắc vào Nam, từ đỉnh Lũng Cú xuống mũi Cà Mau chính là sự hóa thân của những người vợ, người chồng. Tấm lòng thủy chung son sắt của người phụ nữ Việt đã tạo nên dáng núi kì lạ đó. Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn, vịnh Hạ Long ở Quảng Ninh là biểu tượng xinh xắn cho tình yêu thắm thiết nồng nàn. Một kẻ trần thế, một người cõi tiên bất chấp quy tắc thiên tào, nguyện hóa đá để muôn thuở ở mãi bên nhau. Những ao đầm dày đặc ở vùng đất Sóc Sơn là những hình ảnh bất tử về ý thức yêu nước nồng nàn, khí phách kiên cường quật cường của những người dân đất Việt. Ko có ý thức kết đoàn một lòng tất ko thể có Tổ quốc linh thiêng, hùng vĩ. Ko có ý thức vượt khó, hiếu học, ko có núi bút non Nghiên. Và bất kỳ danh lam thắng cảnh nào trên dải đất hình chữ S cũng là máu thịt của nhân dân. Vậy là mọi danh lam thắng cảnh đều là kết quả của sự hóa thân kì diệu, của bao thế hệ nhân dân lao động. Mỗi hình sông dáng núi, bóng đèo đều in dấu dáng hình, tâm tư tình cảm, ước ao, khát vọng, tính cách, phẩm chất của những con người Đất Việt Mỗi danh lam là một bức tượng đài bất tử về vẻ đẹp tâm hồn người Việt. Ngợi ca núi sông hùng vĩ, diễm lệ thực chất là ngợi ca, tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân. Ko có nhân dân bao đời với tâm hồn cao quí, khát vọng lãng mạn thì ko có những thắng cảnh kì thú để con cháu đời đời kiếp kiếp chiêm ngưỡng. Từ những khám phá mới mẻ, với những danh lam thắng cảnh cụ thể, nổi tiếng của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã đi tới những nói chung tính chiết luận Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng màng một dáng hình, một ước ao, một lối sống ông chaÔi Đất Nước sau bốn nghìn năn ta cũng thấyNhũng cuộc đời đã hóa núi sông ta… Đâu chỉ có những địa dnah như núi vọng phu, hòn Trống Mái, sự hóa thân kì diệu của nhân dân nhưng tất cả ruộng đồng, đồi nương, gò bãi đều in dáng hình, bàn tay, khối óc, ước mơ, khát vọng, lối sống của ông cha ta. Ngẫm về công lao to lớn của nhân dân, về truyền thống của ông cha thuở trước, Nguyễn Khoa Điềm ko khỏi rưng rưng bổi hổi xúc động, rộn rực niềm mến yêu, tự hào. Thán từ “ôi” và dấu ba chấm cuối đoạn đã truyền tới người đọc nguyên vẹn xúc cảm đó. Khúc thơ tiêu biểu cho vẻ đẹp của thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ở đây có sự liên kết thuần thục giữa tính chính luận và chất trữ tình, giữa thế núi kì thú và Nguyễn Khoa Điềm đã cắt những câu hỏi đó bằng suy từ lắng của mình, bằng những hình ảnh giàu chất thơ. Mạch thơ trình bày rõ tư duy logic, đi từ cụ thể tới nói chung, một cách nói chung đầy xúc cảm, rưng rưng xúc động. Đoạn thơ cũng đầy ắp chất liệu văn học dân gian. Đó là những sự tích huyền thoại, truyền thuyết. Chính chất liệu dân gian lạ mắt, mới mẻ đó đã mở ra một toàn cầu vừa bình dị, mộc mạc, vừa thiêng liêng bay bổng. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân thực ra đã có một quá trình tăng trưởng trong lịch sử dân tộc nói chung, văn học nói riêng. Những nhà văn lớn, nhà tư tưởng lớn của dân tộc đã từng nói lên vai trò của nhân dân như Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu,… Tới thời đoạn văn học cách mệnh, tư tưởng của nhân dân một lần nữa được nhận thức thâm thúy thêm bởi vai trò và đóng góp to lớn của nhân dân trong vô vàn những cuộc đấu tranh thảm khốc. Điều này được trình bày qua một số cây bút tiêu biểu như Đất Nước Nguyễn Đình Thi, Đường tới thành thị Hữu Thỉnh,… Tuy nhiên, chỉ lúc tới “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm, tư tưởng của nhân dân mới trở thành cảm hứng chủ đạo. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân đã trở thành hệ quy chiếu khiến thi sĩ có những khám phá mới mẻ, thâm thúy về Đất Nước qua ko gian địa lí, thời kì lịch sử và chiều sâu văn hóa. Đặc thù, Đất Nước của nhân dân đã vang lên thành lời thành tiếng Để Đất Nước là Đất Nước của nhân Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại Thành công của đoạn trích Đất Nước là Nguyễn Khoa Điềm đã tạo ra một ko khí, một giọng điệu, đưa ta vào toàn cầu thân thiện của ca dao dân ca, truyền thuyết văn hóa. Đó chính là nét rực rỡ thẩm mĩ, thống nhất với tư tưởng “Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của da dao thần thoại” Đoạn thơ trên đây tiêu biểu cho cái hay, cái đẹp của hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ở đây có sự liên kết thuần thục giữa tính chính luận và trữ tình, suy tư sâu lắng và xúc cảm nồng nàn. Chất liệu văn hóa dân gian được vận dụng thông minh. Qua hình tượng Đất Nước nhưng thi sĩ ngợi ca tâm hồn nhân dân, khẳng định nòi giống nhưng dáng đừng Việt Nam. Nhân dân là chủ Đất Nước, Đất Nước là của nhân dân. Phân tích Quốc gia những người vợ nhớ chồng – Mẫu 9 Nguyễn Khoa Điềm đã bao quát chiều dài, chiều rộng của Đất Nước, từ bắc chí nam, từ miền ngược tới miền xuôi, từ núi rừng tới đại dương, tự hào về bao danh lam thắng cảnh của Đất Nước như núi vọng phu, hòn Trống Mái, vịnh Hạ Long, đất Tổ Hùng Vương và bao địa danh mang tên ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm. Những người vợ nhớ chồng còn góp cho những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳmNgười học trò nghèo góp cho Đất Nước núi Bút, non NghiênCon có, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm Thực chất những danh thắng đó là kết quả của quá trình vận động địa chất, kiến tạo địa lí từ hàng nghìn, hàng vạn năm chứ. Ko khám phá dưới góc độ khoa học, với suy từ thâm thúy, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới mẻ về những danh lam thắng cảnh đó. Những núi vọng phu trải dài từ Bắc vào Nam, từ đỉnh Lũng Cú xuống mũi Cà Mau chính là sự hóa thân của những người vợ, người chồng. Tấm lòng thủy chung son sắt của người phụ nữ Việt đã tạo nên dáng núi kì lạ đó. Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn, vịnh Hạ Long ở Quảng Ninh là biểu tượng xinh xắn cho tình yêu thắm thiết nồng nàn. Một kẻ trần thế, một người cõi tiên bất chấp quy tắc thiên tào, nguyện hóa đá để muôn thuở ở mãi bên nhau. Những ao đầm dày đặc ở vùng đất Sóc Sơn là những hình ảnh bất tử về ý thức yêu nước nồng nàn, khí phách kiên cường quật cường của những người dân đất Việt. Ko có ý thức kết đoàn một lòng tất ko thể có Tổ quốc linh thiêng, hùng vĩ. Ko có ý thức vượt khó, hiếu học, ko có núi bút non Nghiên. Và bất kỳ danh lam thắng cảnh nào trên dải đất hình chữ S cũng là máu thịt của nhân dân. Vậy là mọi danh lam thắng cảnh đều là kết quả của sự hóa thân kì diệu, của bao thế hệ nhân dân lao động. Mỗi hình sông dáng núi, bóng đèo đều in dấu dáng hình, tâm tư tình cảm, ước ao, khát vọng, tính cách, phẩm chất của những con người Đất Việt. Mỗi danh lam là một bức tượng đài bất tử về vẻ đẹp tâm hồn người Việt. Ngợi ca núi sông hùng vĩ, diễm lệ thực chất là ngợi ca, tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân. Ko có nhân dân bao đời với tâm hồn cao quý, khát vọng lãng mạn thì ko có những thắng cảnh kì thú để con cháu đời đời kiếp kiếp chiêm ngưỡng. Từ những khám phá mới mẻ, với những danh lam thắng cảnh cụ thể, nổi tiếng của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã đi tới những nói chung tính chiết luận Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng màng một dáng hình, một ước ao, một lối sống ông chaÔi Đất Nước sau bốn nghìn năm ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hóa núi sông ta… Đâu chỉ có những địa danh như núi vọng phu, hòn Trống Mái, sự hóa thân kì diệu của nhân dân nhưng tất cả ruộng đồng, đồi nương, gò bãi đều in dáng hình, bàn tay, khối óc, ước mơ, khát vọng, lối sống của ông cha ta. Ngẫm về công lao to lớn của nhân dân, về truyền thống của ông cha thuở trước, Nguyễn Khoa Điềm ko khỏi rưng rưng bổi hổi xúc động, rộn rực niềm mến yêu, tự hào. Thán từ “ôi” và dấu ba chấm cuối đoạn đã truyền tới người đọc nguyên vẹn xúc cảm đó. Khúc thơ tiêu biểu cho vẻ đẹp của thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ở đây có sự liên kết thuần thục giữa tính chính luận và chất trữ tình, giữa thế núi kì thú và Nguyễn Khoa Điềm đã cắt những câu hỏi đó bằng suy từ lắng của mình, bằng những hình ảnh giàu chất thơ. Mạch thơ trình bày rõ tư duy logic, đi từ cụ thể tới nói chung, một cách nói chung đầy xúc cảm, rưng rưng xúc động. Đoạn thơ cũng đầy ắp chất liệu văn học dân gian. Đó là những sự tích huyền thoại, truyền thuyết. Chính chất liệu dân gian lạ mắt, mới mẻ đó đã mở ra một toàn cầu vừa bình dị, mộc mạc, vừa thiêng liêng bay bổng ►►CLICK NGAY vào nút TẢI VỀ dưới đây để tải về Top 9 mẫu phân tích khổ cuối Quốc gia những người vợ nhớ chồng chọn lựa nhất file PDF hoàn toàn miễn phí. Bạn thấy bài viết Top 9 mẫu phân tích khổ cuối Quốc gia những người vợ nhớ chồng chọn lựa nhất có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Top 9 mẫu phân tích khổ cuối Quốc gia những người vợ nhớ chồng chọn lựa nhất bên dưới để có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo Phân mục Soạn văn Top mẫu phân tích khổ cuối Đất nước những người vợ nhớ chồng chọn lọc nhất Top 19 phân tích những người vợ nhớ chồng viết bởi Cosy Nêu tư tưởng đất nước của nhân dân qua đoạn trích những người vợ nhớ chồng…hoá núi sông ta. Tác giả Ngày đăng 01/07/2023 Đánh giá 302 vote Tóm tắt hoá núi sông ta. Phân tích tư tưởng đất nước của nhân dân qua đoạn trích”những người vợ nhớ chồng… đã hoá núi sông ta”. Nội Dung Nguyễn Khoa Điềm đã bao quát chiều dài, chiều rộng của Đất Nước, từ bắc chí nam, từ miền ngược tới miền xuôi, từ núi rừng tới biển cả, tự hào về bao danh lam thắng cảnh của Đất Nước như núi vọng phu, hòn Trống Mái, vịnh Hạ Long, đất Tổ Hùng Vương và … Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa núi sông ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm Tác giả Ngày đăng 06/30/2022 Đánh giá 277 vote Tóm tắt THCS Thành xin gửi tới bạn đọc bài viết Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ ”Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa … Nội Dung Thành công của đoạn trích Đất Nước là Nguyễn Khoa Điềm đã tạo ra một không khí, một giọng điệu, đưa ta vào thế giới gần gũi của ca dao dân ca, truyền thuyết văn hóa. Đó chính là nét đặc sắc thẩm mỹ, thống nhất với tư tưởng “Đất Nước của nhân dân, … Rất Hay Top 20+ phân tích đoạn thơ những người vợ nhớ chồng [Triệu View] Tác giả Ngày đăng 03/26/2023 Đánh giá 430 vote Tóm tắt Tóm tắt binh giang doan tho nhung nguoi vo nho chong nui song ta, Bình giảng đoạn thơ sau trong Đất Nước “Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc … Nội Dung Đằng sau những cái người đời nhìn thấy được sông, núi, thắng cảnh, di tích… là cả một quan trình lao động dựng xây, những cuộc chiến đấu ngoan cường chống giặc ngoại xâm. Người xưa không còn, nhưng dáng hình, ao ước, lối sống thì còn mãi mãi, ở … Phân tích khổ cuối bài thơ Đất Nước Những người vợ nhớ thương chồng…hết hay nhất Tác giả Ngày đăng 11/04/2022 Đánh giá 348 vote Tóm tắt hòn Trống Mái ở Sầm Sơn không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên mà còn là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Vợ có “nhớ chồng”, … Nội Dung => Thế giối nghệ thuật thơ Nguyễn Khoa Điềm là thế giới vừa mộc mạc, dân dã, vừa đẹp lấp lánh những chất liệu văn hóa dân gian. Văn hóa dân gian đã thấm vào ngôn ngữ và cấu trúc hình tượng trong đoạn thơ, để hình tượng nhân dân hiện diện khắp nơi … Phân tích khổ cuối bài thơ đất nước những người vợ nhớ thương chồng hết Tác giả Ngày đăng 07/25/2022 Đánh giá 227 vote Tóm tắt Tài liệu liên quan ; phan tich kho cuoi bai tho con co cua che lan vien 2; 1 ; Phân tích khổ cuối bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm 24; 4 … Nội Dung => Thế giối nghệ thuật thơ Nguyễn Khoa Điềm là thế giới vừa mộc mạc, dân dã, vừa đẹp lấp lánh những chất liệu văn hóa dân gian. Văn hóa dân gian đã thấm vào ngôn ngữ và cấu trúc hình tượng trong đoạn thơ, để hình tượng nhân dân hiện diện khắp nơi … Bình giảng đoạn thơ sau “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu… Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” Tác giả Ngày đăng 03/08/2023 Đánh giá 454 vote Tóm tắt Hình ảnh đất nước đã khơi nguồn cảm hứng vô tận cho biết bao thi sĩ cách mạng để sáng tạo nên những vần thơ đẹp tuyệt vời. Chế Lan Viên nhìn suốt chiều dài … Nội Dung Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 ở Thừa Thiên Huế là con nhà phê bình văn học Hải Triều, một nhà phê bình xuất sắc đã từng chủ trì lý thuyết nghệ thuật vị nhân sinh trong cuộc tranh luận với Hoài Thanh 1936 – 1939. Đất Nước được trích trong … Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ ”Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm Tác giả Ngày đăng 10/30/2022 Đánh giá 398 vote Tóm tắt Văn mẫu lớp 12 Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ ”Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” trong Đất nước của Nguyễn Khoa … Nội Dung xin gửi tới bạn đọc bài viết Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ ”Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm để bạn đọc cùng tham khảo. Bài gồm có 6 mẫu bài phân tích. Bài … Top 15+ Cảm Nhận đất Nước Những Người Vợ Nhớ Chồng hay nhất Tác giả Ngày đăng 10/03/2022 Đánh giá 302 vote Tóm tắt Bình giảng đoạn thơ sau trong Đất Nước “Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”. binh giang doan tho nhung nguoi vo nho chong nui song . Nội Dung xin gửi tới bạn đọc bài viết Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ ”Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm để bạn đọc cùng tham khảo. Bài gồm có 6 mẫu bài phân tích. Bài … Bình giảng đoạn thơ sau trong Đất Nước “Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” Tác giả Ngày đăng 06/08/2022 Đánh giá 375 vote Tóm tắt binh giang doan tho nhung nguoi vo nho chong nui song ta, Bình giảng đoạn thơ sau trong Đất Nước “Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa núi … Nội Dung Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Trường ca Mặt đường khát vọng là tác phẩm sâu sắc, mang vẻ độc đáo của ông được sáng tác vào năm 1971 tại núi rừng chiến khu Trị – Thiên. Bài Đất Nước là chương V … Bình giảng đoạn thơ sau trong Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm Những người vợ nhớ chồng … Những cuộc đời đã hóa núi sông ta Tác giả Ngày đăng 09/26/2022 Đánh giá 69 vote Tóm tắt “ Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi vọng phu, … Phân tích đoạn trích Đất Nước – trích trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa … Nội Dung Núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định… hòn Trống Mái ở sầm Sơn không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên mà còn là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Vợ có “nhớ chồng”, cặp vợ chồng có “yêu nhau” thì mới “góp cho Đất Nước”, … Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ ''Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa núi sông ta'' trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm Phân tích tư tưởng của nhân dân qua tác phẩm Đất nước Tác giả Ngày đăng 07/23/2022 Đánh giá 130 vote Tóm tắt Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ ”Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, Phân tích … Nội Dung Đất nước là đề tài muôn thuở của thơ văn Việt Nam. Chúng ta đã bắt gặp đất nước chìm trong đau thương, mất mát qua thơ Hoàng Cầm; gặp đất nước đang đổi mới từng ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi. Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh, đầy đủ … Đề bài Phân tích đoạn thơ sau Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên. Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hóa núi sông ta… Tác giả Ngày đăng 04/29/2022 Đánh giá 125 vote Tóm tắt Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu. Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái. Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm … Nội Dung + Những người vợ nhớ chồng – Tô Thị – hình ảnh biểu trưng cho bao nhiêu người phụ nữ Việt Nam, câu chuyện Tô Thị đặt ở nước Nam gắn với đất nước có biết bao cuộc chiến tranh lịch sử, có biết bao người phụ nữ bồng con chờ chồng mà phải hóa đá, có … Lập dân ý đoạn trích những người vợ nhớ chồng những cuộc đời đã hóa núi sông ta Tác giả Ngày đăng 04/29/2022 Đánh giá 91 vote Tóm tắt I. Dàn ý chi tiết cho đề phân tích đoạn thơ trong Đất nước. 1. Mở bài. Giới thiệu bài thơ “Đất nước” … Nội Dung + Những người vợ nhớ chồng – Tô Thị – hình ảnh biểu trưng cho bao nhiêu người phụ nữ Việt Nam, câu chuyện Tô Thị đặt ở nước Nam gắn với đất nước có biết bao cuộc chiến tranh lịch sử, có biết bao người phụ nữ bồng con chờ chồng mà phải hóa đá, có … Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ ”Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta” trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm Tác giả Ngày đăng 12/14/2022 Đánh giá 183 vote Tóm tắt Đề bài Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ ”Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta” trong Đất nước của … Nội Dung + Những người vợ nhớ chồng – Tô Thị – hình ảnh biểu trưng cho bao nhiêu người phụ nữ Việt Nam, câu chuyện Tô Thị đặt ở nước Nam gắn với đất nước có biết bao cuộc chiến tranh lịch sử, có biết bao người phụ nữ bồng con chờ chồng mà phải hóa đá, có … Phân tích đoạn thơ trong đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm Tác giả Ngày đăng 08/12/2022 Đánh giá 113 vote Tóm tắt Trước khi bước sang bài văn mẫu phân tích đoạn thơ Những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước những núi Vọng Phu…Những cuộc đời đã hóa núi sông ta trong … Nội Dung Thơ đích thực khơi gợi hồn người trở nên trong sáng, phong phú và cao thượng. Đoạn thơ như một tiếng nói tâm tình “dịu ngọt”, nhà thơ như đang đối thoại cùng ta về đất nước và nhân dân. Đọc lại đoạn thơ, lòng mỗi chúng ta bâng khuâng, xúc dộng nghĩ … Cảm nhận về đoạn thơ sau Những người vợ nhớ chồng góp cho Đất Nước những núi Vọng phu… Những cuộc đời đã hoá núi sông ta Tác giả Ngày đăng 03/03/2023 Đánh giá 139 vote Tóm tắt Phân tích đoạn thơ sau đây trong đọan trích “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng … Nội Dung Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” là một tư tưởng rất tiến bộ của thơ ca thời đại Cách mạng. Với đoạn thơ Đất nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới mẻ về thiên nhiên địa lí của đất nước. Để nói lên công lao to lớn của nhân dân … 53 Phân tích đoạn thơ Những người vợ nhớ chồng… hóa núi sông ta Nguyễn Khoa Điềm mới nhất Tác giả Ngày đăng 04/05/2023 Đánh giá 117 vote Tóm tắt Phân tích đoạn thơ “Những người vợ nhớ chồng… hóa núi sông ta” Nguyễn Khoa Điềm Nội Dung “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình cho đất tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dòng … Phân tích Đoạn 4 bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm hay Tác giả Ngày đăng 01/09/2023 Đánh giá 193 vote Tóm tắt Núi non, biển đảo ấy là do “những người vợ nhớ chồng”, hay những đôi trai gái yêu nhau đã “góp công”, đã “góp phần”, làm đẹp, … Nội Dung Phải chăng hình ảnh thơ gợi cho ta nhớ đến lịch sử sự tích trầu cau từ thời Hùng Vương dựng nước, truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh giặc Ân? Tức là lịch sử đất nước được lưu giữ trong từng câu chuyện, hiện ra trong “miếng trầu bà ăn”, trong … Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Tác giả Ngày đăng 05/19/2022 Đánh giá 199 vote Tóm tắt Lời giải của Tự Học 365. Phương pháp giải – Phân tích Phân tích đề để xác định thể loại, yêu cầu, phạm vi dẫn chứng … Nội Dung + Lời thơ là lời tâm tình giữa anh, em, giữa ta với người. Nhưng đoạn thơ cũng là một lập luận nhằm thuyết phục và chia sẻ nhận thức Thiên nhiên, lịch sử, văn hoá… của Đất Nước. Tất cả đều do nhân dân xây dựng, tất cả là của nhân dân. Nhìn vào …

phân tích đoạn những người vợ nhớ chồng