Hướng dẫn cách tải Liên Quân Đài Loan 2022 bản Moba Việt Hóa dành cho thiết bị APK, iOS miễn phí. Hướng dẫn chi tiết các bước cài đặt game nhanh nhất ngay tại 7. Phân tích Việt Bắc đoạn 1. Nhắc đến Tố Hữu, người ta sẽ nhớ ngay đến hình ảnh của một nhà thơ luôn đi đầu trong phong trào nghệ thuật vì nền cách mạng nước nhà. Con đường thơ ca của Tố Hữu luôn gắn liền với những hình ảnh, sự kiện nổi bật của dân tộc Phân tích khổ thơ thứ 7 bài Việt Bắc - Mẫu 1 "Việt Bắc" - bài thơ lục bát mang tầm vóc một trường ca dài 150 câu thơ, cảm xúc dâng lên mênh mông dào dạt. Bài thơ ra đời vào tháng 10 năm 1054, ngày giải phóng Thủ đô Hà Nội. Thân bài phân tích chi tiết 8 dòng đầu của bài thơ Tiếng Việt. luận điểm 1: nỗi nhớ của người ở lại. Phân tích 8 dòng đầu của bài thơ Việt Bắc, độc giả rất ấn tượng với cách gọi thú vị của người đến, người ở mà tác giả nói trong bài. đó là "tôi" và Qua quá trình phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7 của nhà thơ Tố Hữu, chúng ta có thể cảm nhận rõ nỗi nhớ da diết của người về xuôi là những chiến sĩ Cách mạng dành cho người dân Việt Bắc. 15 năm ăn ở nơi đây, khiến cho thiên nhiên lẫn con người Việt Bắc đã in sâu trong tâm trí và trái tim của người các chiến sĩ. cash. 14 mẫu bài phân tích bài thơ Việt BắcVnDoc xin giới thiệu tới các bạn học sinh tài liệu Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu, với nội dung bài gồm mẫu dàn ý và 13 bài phân tích Việt Bắc chắc chắn sẽ là nguồn thông tin hữu ích để giúp các bạn học sinh có kết quả cao hơn trong học tập môn Ngữ văn lớp 12. Mời thầy cô cùng các bạn học sinh tham thơ Việt Bắc- Mình về mình có nhớ ta?Mười lăm năm ấy thiết tha mặn về mình có nhớ không?Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ Tiếng ai tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước điÁo chàm đưa buổi phân lyCầm tay nhau biết nói gì hôm nay...- Mình đi, có nhớ những ngàyMưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?Mình về, có nhớ chiến khuMiếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?Mình về, rừng núi nhớ aiTrám bùi để rụng, măng mai để giàMình đi, có nhớ những nhàHắt hiu lau xám, đậm đà lòng sonMình về, còn nhớ núi nonNhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt MinhMình đi, mình có nhớ mìnhTân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?- Ta với mình, mình với taLòng ta sau trước mặn mà đinh ninhMình đi, mình lại nhớ mìnhNguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...Nhớ gì như nhớ người yêuTrăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nươngNhớ từng bản khói cùng sươngSớm khuya bếp lửa người thương đi từng rừng nứa bờ treNgòi Thia sông áy, suối Lê vơi đầyTa đi, ta nhớ những ngàyMình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...Thương nhau, chia củ sắn lùiBát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùngNhớ người mẹ nắng cháy lưngịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngôNhớ sao lớp học i tờồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoanNhớ sao ngày tháng cơ quanGian nan đời vẫn ca vang núi sao tiếng mõ rừng chiềuChày đêm nện cối đều đều suối xa...Ta về, mình có nhớ taTa về ta nhớ những hoa cùng ngườiRừng xanh hoa chuối đỏ tươièo cao nắng ánh dao gài thắt xuân mơ nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng sợi giangVe kêu rừng phách đổ vàngNhớ cô em gái hái măng một mìnhRừng thu trăng rọi hoà bìnhNhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ khi giặc đến giặc lùngRừng cây núi đá ta cùng đánh TâyNúi giăng thành luỹ sắt dàyRừng che bộ đội rừng vây quân thùMênh mông bốn mặt sương mùất trời ta cả chiến khu một về ai có nhớ không?Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo GiàngNhớ sông Lô, nhớ phố RàngNhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà...Những đường Việt Bắc của taêm đêm rầm rập như là đất rungQuân đi điệp điệp trùng trùngÁnh sao đầu súng bạn cùng mũ nanDân công đỏ đuốc từng đoànBước chân nát đá, muôn tàn lửa đêm thăm thẳm sương dàyèn pha bật sáng như ngày mai vui chiến thắng trăm miềnHoà Bình, Tây Bắc, iện Biên vui vềVui từ ồng Tháp, An KhêVui lên Việt Bắc, đèo De, núi về ai có nhớ không?Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa trưa rực rỡ sao vàngTrung ương, Chính phủ luận bàn việc côngiều quân chiến dịch thu đôngNông thôn phát động, giao thông mở đườngGiữ đê, phòng hạn, thu lươngGửi dao miền ngược, thêm trường các khu...Ở đâu u ám quân thùNhìn lên Việt Bắc Cụ Hồ sáng soiỞ đâu đau đớn giống nòiTrông về Việt Bắc mà nuôi chí lăm năm ấy ai quênQuê hương cách mạng dựng nên Cộng hoàMình về mình lại nhớ taMái đình Hồng Thái cây đa Tân Nước trôi nước có về nguồnMây đi mây có cùng non trở về?Mình về, ta gửi về quêThuyền nâu trâu mộng với bè nứa maiNâu này nhuộm áo không phaiCho lòng thêm đậm cho ai nhớ mìnhTrâu về, xanh lại Thái BìnhNứa mai gài chặt mối tình ngược Nước trôi, lòng suối chẳng trôiMây đi mây vẫn nhớ hồi về noná mòn nhưng dạ chẳng mònChàm nâu thêm đậm, phấn son chẳng mai mình gửi quê nhàNước non đâu cũng là ta với mìnhThái Bình đồng lại tươi xanhPhên nhà lại ấm, mái đình lại vui...- Mình về thành thị xa xôiNhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?Phố đông, còn nhớ bản làngSáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?Mình đi, ta hỏi thăm chừngBao giờ Việt Bắc tưng bừng thêm vui?- ường về, đây đó gần thôi!Hôm nay rời bản về nơi thị thànhNhà cao chẳng khuất non xanhPhố đông, càng giục chân nhanh bước mai về lại thôn hươngRừng xưa núi cũ yêu thương lại vềNgày mai rộn rã sơn khêNgược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới Phấn Mễ, thiếc Cao BằngPhố phường như nấm như măng giữa trờiMái trường ngói mới đỏ vui trăm nẻo về khơi luồng hàngMuối Thái Bình ngược Hà GiangCày bừa ông Xuất, mía đường tỉnh ThanhAi về mua vại Hương CanhAi lên mình gửi cho anh với nàngChiếu Nga Sơn, gạch Bát TràngVải tơ Nam ịnh, lụa hàng Hà ôngÁo em thêu chỉ biếc hồngMùa xuân ngày hội lùng tùng thêm tươiCòn non, còn nước, còn trờiBác Hồ thêm khoẻ, cuộc đời càng vui!- Mình về với Bác đường xuôiThưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ NgườiNhớ ông Cụ mắt sáng ngờiÁo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường!Nhớ Người những sáng tinh sươngUng dung yên ngựa trên đường suối reoNhớ chân Người bước lên đèoNgười đi rừng núi trông theo bóng Người...- Lòng ta ơn ảng đời đờiNgược xuôi đôi mặt một lời song năm xưa nước non HồngCòn đây ơn ảng nối dòng dài lâuNgàn năm non nước mai sauời đời ơn ảng càng sâu càng tay nhau hát vui chungHôm sau mình nhé, hát cùng Thủ Dàn ý Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố HữuA. HƯỚNG DẪN TÌM HIỂU ĐỀMười dòng thơ 5 câu lục bát thực sự được viết bởi ngòi bút già dặn và tinh tế. Khi phân tích, có thể tách đoạn thơ ra thành hai phần hai dòng đầu và tám dòng sau. Trọng tâm dồn vào phần sau, tức là phần tạo dựng bức tranh tứ bình về cảnh và người Việt Bắc theo chủ đề Xuân - Hạ - Thu - Đông. Có thể vận dụng những thuật ngữ của hội họa để đánh giá nghệ thuật miêu tả của tác giả. Không nên sa vào việc tả lại một cách rườm rà những điều tác giả đã tả mà phải tập trung làm nổi bật tài vận dụng ngôn ngữ và chọn lọc chi tiết của nhà DÀN BÀII. MỞ BÀI- Việt Bắc, khúc ca trữ tình nồng nàn, đắm say về những lẽ sống lớn, ân tình lớn của con người cách Nỗi nhớ hướng về cảnh và người ở quê hương Việt Bắc là một nội dung nổi bật của bài thơ, được thể hiện hết sức xuất sắc trong đoạn thơ THÂN BÀI- Hai dòng đầu của đoạn thơ vừa giới thiệu chủ đề của đoạn, vừa có tính chất như một sự đưa đẩy để nối các phần của bài thơ lại với nhau. Người ra đi đã nói rõTa về, ta nhớ những hoa cùng nỗi nhớ của người đi, cảnh vật lẫn con người Việt Bắc hòa quyện với nhau thành một thể thống Trong tám dòng thơ tiếp theo, tác giả tạo dựng một bộ tranh tứ bình về Việt Bắc theo chủ đề Xuân - Hạ - Thu - Đông. Ngòi bút tạo hình của nhà thơ đã đạt tới trình độ cổ điển. Bút pháp miêu tả nhất quán câu lục để nói cảnh, còn câu bát dành để “vẽ” Bức thứ nhất của bộ tranh tả cảnh mùa đông. Màu hoa chuối đỏ tươi đã làm trẻ lại màu xanh trầm tịch của rừng già. Sự đối chọi hai màu xanh - đỏ ở đây rất ảnh con người được nói tới sau đó chính là điểm sáng di động của bức tranh. Tác giả thật khéo gài con dao ở thắt lưng người đi trên đèo cao khiến hình ảnh đó trở nên nổi Bức tranh thứ hai tả cảnh mùa xuân bằng gam màu trắng. Xuân về,rừng hoa mơ bừng nở. Màu trắng tinh khiết của nó làm choáng ngợp lòng người. Âm điệu hai chữ “trắng rừng” diễn tả rất đạt sức xuân nơi núi rừng và cảm giác ngây ngất trong lòng người ngắm đan nón có dáng vẻ khoan thai rất hòa hợp với bối cảnh. Từ “chuốt” vừa mang tính chất của động từ vừa mang tính chất của tình Bức tranh thứ ba nói về mùa hè. Gam màu vàng được sử dụng đắt địa. Đó là “màu” của tiếng ve quyện hòa với màu vàng của rừng phách thay lá. Do cách diễn đạt tài tình của rừng phách, ta có cảm tưởng tiếng ve đã gọi dậy sắc vàng của rừng phách và ngược lại sắc vàng này như đã thị giác hóa tiếng ảnh “cô gái hái măng một mình” xuất hiện đã cân bằng lại nét tả đầy kích thích ở trên. Nó có khả năng khơi dậy trong ta những xúc cảm ngọt Bức tranh thứ tư vẽ cảnh mùa thu với ánh trăng dịu mát, êm đềm. Trên nền bối cảnh ấy, “tiếng hát ân tình thủy chung” ai đó cất lên nghe thật ấm lòng. Đây là tiếng hát của ngày qua hay tiếng hát của thời điểm hiện tại đang ngân nga trong lòng người sắp phải giã từ Việt Bắc?III. KẾT BÀIĐoạn thơ có vẻ đẹp lộng lẫy đã được viết bằng một ngòi bút điêu luyện. Đọc nó, ấn tượng sâu sắc còn lại là nghĩa tình đối với “quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa”.2. Audio Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu3. Video Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu4. Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu mẫu 1Tính dân tộc là một phạm trù mĩ học, là một thuộc tính tất yếu của vốn học, được coi là tiêu chuẩn để đánh giá một tác phẩm văn học. Mỗi nền văn học bao giờ cùng là thành tựu của cả một dân tộc nhất định, dù ít hay nhiều, sâu sắc hay không sâu sắc thì nền Văn học bao giờ cũng hiển hiện những nét của dân tộc mình. Tính dân tộc quán triệt khá nhiều mặt của sáng tác văn học, từ nguồn gốc đến chức năng, từ ngồn ngữ đến thể loại, từ nội dung đến hình thế giới còn tồn tại nhiều dân tộc thì nền văn học dân tộc nhất định phải có nét riêng, phải có tính dân tộc. Không có một nền văn học nào là phi dân tộc, không có một người nào là phi dân tộc. Văn học có tính dân tộc là một trong những yêu cầu của người sáng tạo nghệ thuật. Người nghệ sĩ phải đòi hỏi có ý thức về dân tộc một cách sâu sắc, phản ánh được những truyền thống ý thức của dân tộc. Văn học phản ánh hiện thực, khi đi vào tác phẩm của mỗi nhà văn, bao giờ cũng thấy hiển hiện trước hết là hiện thực của đất nước mình, dân tộc dân tộc được biểu hiện ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Đề tài là những sự kiện xảy ra trong lịch sử dân tộc, những hiện tượng chính trị của dân tộc; chủ đề ca ngợi lòng yêu nước, khẳng định ý thức, tinh thần dân tộc; nhân vật là những con người điển hình, biểu hiện tập trung tâm lí, tính cách của cả một dân tộc,… đó chính là những yếu tố nội dung in đậm tính dân tộc trong một tác phẩm văn học. Tác phẩm ấy còn phải biểu hiện được sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa truyền thống và cách tân, dân tộc và hiện đại khi sử dụng linh hoạt những yếu tố hình thức như thể loại, ngôn ngữ, hình ảnh…Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu được thể hiện sinh động, phong phú qua hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Cách mạng tháng Tám thắng lợi, Tố Hữu đã tham gia, chứng kiến với tư cách là một người chiến sĩ đấu tranh không mệt mỏi, một nhà thơ mang hồn thơ thời đại, bởi thế, thơ ông kết tinh, quy tụ được giá trị nhân văn, sức mạnh tinh thần của dân tộc. Tiếng nói của người nghệ sĩ hoà nhập với cuộc đời chung. Rất khó phân biệt ở thơ Tố Hữu cái riêng, cái chung. Cái chung dược miêu tả như những tiếng reo vui của tác giả trước những niềm vui lớn của dân tộc. Tố Hữu là nhà thơ nói được những vui buồn của lịch sử qua những chặng lịch sử cạnh sức cuốn hút của những hình ảnh, sự kiện lịch sử hiện tại, thơ Tố Hữu còn tìm về quá khứ, về với đời sống hàng ngày của dân tộc. Quá khứ được khơi nguồn trên nhiều bình diện, có bất khuất, có xót đau,… nhưng tất cả đều thuộc về dân tộc. Tất cả những gì gần gũi, thân yêu của lịch sử dân tộc đều được Tố Hữu trân trọng đưa vào trong thơ. Tác giả cố gắng nắm bắt những âm thanh của đời sống dân tộc rất đời thường, bình dị, nhưng cao cả, đẹp đẽ. Đáng quý là cuộc sống bình dị ấy được Tố Hữu biểu hiện bằng một tiếng nói thẳm sâu, đằm thắm, từ con tim xúc động, từ giao cảm tinh tế với cái đẹp của thiên nhiên, con người Việt dân tộc trong Việt Bắc còn được thể hiện qua hình thức độc đáo của bài thơ. Tác phẩm trước hết được viết bằng thể thơ lục bát, một thể thơ truyền thống của dân tộc. Thơ Tố Hữu thuộc thơ trữ tình điệu nói, thành thạo trong thể thơ truyền thống, gần gũi lời ăn tiếng nói hàng ngày. Chất văn xuôi được đưa vào thơ, tạo ra một thế giới nghệ thuật long lanh ngời sắc, cả lịch sử và con người đều toả sáng. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn cho phép nhà thơ biểu hiện tập trung những vấn đề cách mạng của dân tộc, nhân loại, thời đại. Ngôn từ tinh tế, phong phú, nhiệt huyết, sáng ngời vói những lối ví von, so sánh độc đáo, cách xưng hô “mình”, “ta” đã tạo nên một giọng điệu đằm thắm, trữ Bắc hội tụ tình yêu và niềm tin của con người trong kháng chiến. Người ta nhận ra trong lời thơ tình cảm tha thiết, bền chặt của con người. Không chỉ là chín, mươi hay mười lăm năm mà chính sự gắn bó sâu sắc giữa người và đất đã tạo nên một tình yêu sâu nặng, một mối ân tình cao đẹp. Việt Bắc chính là cội nguồn của quê hương cách mạng, những câu thơ chính là tiếng lòng nhớ thương của con người. Cái hay của bài thơ chính là cái hay của một khúc ca đằm thắm, yêu thương, hùng tráng mà chung thuỷ, ngọt ngào, lắng Phân tích Việt Bắc mẫu 2Thơ Tố Hữu là những vần thơ thể hiện tiếng nói của dân tộc, của tâm hồn những con người gắn bó sâu sắc với sự nghiệp cách mạng, với quê hương, với đất nước. Trong những vần thơ ấy ta sẽ bắt gặp những tình cảm mến thương sâu sắc, trữ tình, xuất phát từ một trái tim trung thành với dân tộc với nhân dân và tiêu biểu hơn cả là bài thơ Việt Bắc, một trong những bài thơ hay nhất của Tố Hữu 1920-2002, tên khai sinh là Nguyễn Duy Thành, quê ở xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, cái nôi của văn học dân gian. Tố Hữu là nhà thơ lớn, là người tiên phong của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, thơ ông luôn gắn bó với những chặng đường cách mạng của dân tộc. Phong cách thơ mang tính trữ tình chính trị vô cùng sâu sắc, hướng đến những cái tôi chung với lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn, cái tôi trong thơ của ông luôn nhân danh Đảng, cộng đồng dân tộc, những vần thơ ấy vừa giàu nhạc điệu lại mang tính dân tộc đậm 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, gây chấn động địa cầu đã mở ra cho nước ta một trang sử mới một kỷ nguyên mới. Sau khi kí hiệp định Giơ-ne-vơ 7/1954, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, Pháp rút quân về nước. Tháng 10/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ thị toàn bộ các cơ quan trung ương Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc dời về thủ đô. Từ đây, những người chiến sĩ cách mạng chia tay với miền rừng núi bạt ngàn để về xuôi, bước sang một trang mới của cách mạng đất nước, Việt Bắc đã ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt như đầu bài thơ với giọng thơ trữ tình, êm đềm tha thiết, nhà thơ đã thể hiện tình cảm của người ở lại dành cho người ra đi.“- Mình về mình có nhớ taMười lăm năm ấy thiết tha mặn về về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?Tác giả sử dụng cặp xưng hô “mình-ta”, ở đây không phải đang nói đến xưng hô giữa những đôi lứa yêu nhau hay cặp vợ chồng nào đó mà là lời đối đáp của những người cách mạng với người dân Việt Bắc. Cách xưng hô ấy vừa mang tính dân tộc đậm đà lại thể hiện được tính trữ tình chính trị sâu sắc trong thơ Tố Hữu, như tiếng nói trong tình yêu đôi lứa, thể hiện sự gắn bó sâu sắc của người đi kẻ ở, đầy ngậm ngùi, lưu luyến. “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, sự gắn bó ấy không phải chỉ trong những năm kháng chiến chống Pháp mà xuất phát từ những năm kháng chiến chống Nhật, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn 1940. Một khoảng thời gian dài chiến đấu gian khổ, càng làm cho tình cảm giữa những người chiến sĩ cách mạng và người dân Việt Bắc thêm sắt son, mặn nồng, thấm đượm ân tình. Mười lăm năm là quãng thời gian không ngắn cũng chẳng dài nhưng nó đủ khiến cho những cảm xúc biến thành hoài niệm, không thể nào lãng quên, như Chế Lan Viên từng viết “Khi ta ở đất chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?” , và đặc biệt nỗi nhớ ấy đã lan tỏa khắp núi rừng, phải yêu, phải gắn bó, phải sống một trái tim chân tình biết mấy mới có thể có những cảm xúc thiết tha đến vậy?“- Tiếng ai tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước điÁo chàm đưa buổi phân liCầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”Từ phiếm chỉ “ai”, gợi nhiều cảm xúc, ở đây “ai” có thể là người ra đi, cũng có khi là người ở lại. Từ láy “tha thiết” được lấy lại từ từ “thiết tha” đã khắc họa rõ ràng hơn tình cảm của người ra đi và người ở lại, từ “bâng khuâng” và “bồn chồn” chất chứa nhiều tâm tình, ở đó có niềm vui toàn thắng, niềm vui được về lại quê hương, đoàn tụ với gia đình; và ở đó cũng ẩn chứa nhiều nỗi buồn, phải chia tay mảnh đất thấm đẫm nghĩa tình. “Áo chàm đưa buổi phân ly”, hình ảnh chiếc áo có phần cổ điển, truyền thống thể hiện sự quyến luyến, là hình ảnh hoán dụ của con người Việt Bắc, là màu áo nâu giản dị, hiền hòa, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn, linh hồn của người dân và núi rừng Tây Bắc, đang đưa tiễn người chiến sĩ cách mạng. Câu “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”, nhịp thơ 3/4 như tạo một khoảng lặng giữa lúc phân li ngậm ngùi, nhìn nhau mà nghẹn lòng, ngập ngừng không muốn nói điều chi, để cảm xúc ấy phiêu lãng, len lỏi trong tâm hồn, thành kỷ niệm khó phai.“- Mình đi, có nhớ những ngàyMưa nguồn suối lũ, những mây cùng mùMình về, có nhớ chiến khuMiếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?Mình về, rừng núi nhớ aiTrái bùi để rụng măng mai để già.”Sau mỗi cụm từ “Mình đi”, “Mình về”, nhà thơ đã tinh tế đặt một dấu phẩy, đây chính là giây phút, là khoảnh khắc ngưng đọng, để kỷ niệm ùa về trong tâm tưởng. Những kỷ niệm ấy ngự trị trong từng khoảnh khắc thời gian “những ngày”, không gian “chiến khu”. Những hình ảnh “mưa nguồn suối lũ”, “những mây cùng mù”, “miếng cơm chấm muối”, là hình ảnh ẩn dụ cho những khó khăn gian khổ của người làm cách mạng những năm đầu kháng chiến nơi núi rừng Việt Bắc, và chính những khó khăn ấy đã khiến cho nghĩa tình quân dân trở nên thắm thiết, keo sơn. Biện pháp nhân hóa “rừng núi nhớ ai” như thổi vào khung cảnh núi rừng nỗi nhớ nhung dạt dào, sâu thẳm, từ phiếm chỉ “ai” thấm đẫm bao cảm xúc ân tình. Những cụm từ “trái bùi để rụng”, “măng mai để già” đã thể hiện nỗi buồn sâu thẳm, vắng lặng khi người cách mạng về xuôi để lại núi rừng Tây Bắc chênh vênh, lạ lẫm khi nhịp sống đột ngột thay đổi từ đông vui về vắng vẻ đìu hiu.“Mình đi, có nhớ những nhàHắt hiu lau xám, đậm đà lòng sonMình về còn nhớ núi nonNhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt MinhMình đi mình có nhớ mìnhTân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”Nỗi nhớ ấy càng được thể hiện rõ ràng hơn với từ “những nhà”, nghệ thuật đối lập trong câu thơ “Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”, khẳng định một chân lý rằng càng khó khăn gian khổ, thì tình nghĩa quân dân lại càng thêm đoàn kết gắn bó, sắt son một lòng. Những người ở lại nhắc về kỷ niệm xưa cũ từ những ngày đầu mới quen, từ những năm còn kháng chiến chống Nhật để kỷ niệm càng thêm khắc sâu vào tâm hồn người đi. Từ “mình” được lặp lại trong câu thơ “Mình đi mình có nhớ mình” đã gợi nhắc đến câu ca dao “Ta với mình tuy hai mà một” càng khẳng định sự gắn bó thiết tha. Những địa danh vô cùng quen thuộc với người ra đi và cả người ở lại “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”, gợi nhắc lại những kỷ niệm xưa cũ, hào hùng, sâu sắc tình cảm sâu sắc của những người chiến sĩ cách mạng với người dân Tây Bắc.“- Ta với mình, mình với taLòng ta sau trước mặn mà đinh ninhMình đi, mình lại nhớ mìnhNguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...Nhớ gì như nhớ người yêuTrăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nươngNhớ từng bản khói cùng sươngSớm khuya bếp lửa người thương đi từng rừng nứa bờ treNgòi Thia sông áy, suối Lê vơi đầy”Lối đối đắp “mình-ta” tiếp tục được sử dụng, kết cấu “Ta với mình, mình với ta” tạo nên lời đồng vọng tha thiết. Đến đây, ta cũng là mình, mình cũng như ta. Câu thơ “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh” đã thể hiện tình cảm thủy chung son sắt mà người cách mạng dành cho mảnh đất Việt Bắc nghĩa tình, như một lời thề trong tình yêu đôi lứa. Biện pháp so sánh trong câu “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...”, đã thể hiện một điều vô cùng thiêng liêng và sâu sắc Nghĩa tình của con người Việt Bắc thật trong trẻo, đong đầy không có bao giờ có thể vơi cạn như tình yêu thương của lòng mẹ hiền với con cái của mình. Nhà thơ đã so sánh nỗi nhớ ở đây giống như nỗi nhớ người yêu, để trữ tình hóa tình cảm cách mạng, tình quân dân để tất cả trở nên tha thiết hơn, dịu ngọt hơn. Và cũng bởi lẽ nỗi nhớ trong tình yêu là nỗi nhớ thẳm sâu và tha thiết nhất, từ nỗi nhớ ấy, Việt Bắc hiện ra với môt không gian thật thơ mộng, câu thơ “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương” đã thể hiện nỗi nhớ lan tỏa trong không gian và ngự trị trong từng khoảnh khắc của thời gian, cả đêm lẫn ngày. Hình ảnh “Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.” gợi về một miền Việt Bắc mến thương, nồng nàn, ấm áp. Điệp ngữ “nhớ từng” cho chúng ta những cảm nhận như nhà thơ đang lật giở từng trang ký ức, Tố Hữu đã liệt kê những địa danh “sông Đáy, suối Lê” và đến hai tiếng vơi đầy khép lại đoạn thơ thì đây không chỉ còn đơn thuần là địa danh mà là nơi đong đầy kỷ niệm Bao nhiêu nước, bao kỷ niệm đầy vơi, bao nghĩa tình ấm áp ngọt ngào.“Ta đi, ta nhớ những ngàyMình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...Thương nhau, chia củ sắn lùiBát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùngNhớ người mẹ nắng cháy lưngịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngôNhớ sao lớp học i tờồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoanNhớ sao ngày tháng cơ quanGian nan đời vẫn ca vang núi sao tiếng mõ rừng chiềuChày đêm nện cối đều đều suối xa...”Cụm từ “Ta đi ta nhớ…” là lời tâm sự chân thành và là lời nhắn nhủ tha thiết của người đi dành cho những người ở lại, của người cách mạng dành cho mảnh đất Việt Bắc anh hùng, cụm từ “Mình đây ta đó…” kết hợp với “đắng cay ngọt bùi” càng nhấn mạnh hơn những ân tình sâu thẳm. Hai tiếng “thương nhau”, thật nhẹ nhàng những cũng thật sâu lắng, người đi kẻ ở “Thương nhau chia củ sắn lùi”, “Bát cơm xẻ nửa, chăn sui đắp cùng” đã thể hiện những tình cảm đùm bọc, chia sẻ, gắn bó khăng khít đậm đà nghĩa tình quân dân, chính sức mạnh đoàn kết ấy đã tạo nên chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng. Nhà thơ đã khắc họa hình ảnh người mẹ “Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”, đây là một hình ảnh đẹp, gợi nhiều cảm xúc, từ “cháy” rất giàu hình tượng nhấn mạnh nỗi vất vả gian lao của người mẹ trong kháng chiến. Tác giả sử dụng điệp ngữ “Nhớ sao” là nỗi nhớ đầy cảm xúc cùng với đó là những hoạt động ở chiến khu Việt Bắc Lớp học i tờ, những giờ liên hoan, ca vang núi đèo, đã tạo nên một không khí vui tươi thấm đẫm tình đoàn kết quân dân, thể hiện tinh thần lạc quan cách mạng, niềm tin cách mạng nhất định thắng lợi Dù bom đạn, chiến tranh, đau thương, gian khổ, quân và dân vẫn gắn bó với nhau trong khúc nhạc hân hoan, rộn ràng. Đoạn thơ rất giàu nhạc điệu là khúc ca ca ngợi cuộc sống vẫn đẹp, nghĩa tình vẫn sâu chan chứa trong lòng người cách mạng và núi rừng Việt Bắc thân thơ. Câu thơ cuối khép lại với tiếng mõ, tiếng chày, tiếng suối xa gợi nhiều cảm xúc mênh mang, lan tỏa.“Ta về, mình có nhớ taTa về ta nhớ những hoa cùng ngườiRừng xanh hoa chuối đỏ tươièo cao nắng ánh dao gài thắt xuân mơ nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng sợi giangVe kêu rừng phách đổ vàngNhớ cô em gái hái măng một mìnhRừng thu trăng rọi hoà bìnhNhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”Bức tranh tứ bình hiện lên thật đẹp đẽ, câu hỏi tu từ “Ta về mình có nhớ ta”, chất chứa bao nỗi niềm, là cái cớ để người ra đi bộc lộ bao nỗi nhớ nhung, bao yêu thương. Cụm từ “những hoa cùng người” có kết cấu như một thành ngữ, trong nỗi nhớ của người ra đi, hoa là biểu tượng cho thiên nhiên, một bức tranh thiên nhiên đẹp và thơ mộng. Mở đầu bức tranh là mùa đông Việt Bắc, là mùa đông với “hoa chuối đỏ tươi” điểm xuyết trên nền xanh bạt ngàn của núi rừng, tạo nên một bức tranh vô cùng sinh động và nhiều màu sắc, tạo cảm giác ấm áp xua đi cái lạnh cắt da cắt thịt ở mảnh đất Việt người hiện ra trong tư thế lao động, rất đẹp rất kỳ vĩ, con người như chiếm lĩnh đỉnh cao, hình ảnh được tạo nên bằng nghệ thuật hội tụ ánh sáng của nhiếp ảnh. Mùa xuân hiện ra với cảnh “mơ nở trắng rừng”, vô cùng thơ mộng, tạo nên một bức tranh đẹp, ấm áp, lung linh, hình ảnh con người cũng trong trong tư thế lao động “chuốt từng sợi giang”, động từ “chuốt”, thể hiện một công việc cần cù, kiên nhẫn, tỉ mỉ, khắc họa vẻ đẹp của con người Việt Nam trong kháng chiến. Tiếp đến là mùa hạ thật sinh động và tràn đầy sức sống, cảnh thiên nhiên có thêm tiếng ve rộn rã ngân vang núi rừng và tràn đầy sắc vàng của rừng phách. Hình ảnh “cô em gái hái măng một mình” thật đẹp và thơ mộng biết bao. Khép lại bức tranh tứ bình là cảnh mùa thu, mùa thu hòa bình, mùa thu của cách mạng tháng tám thành công, mùa thu năm 1954, tất cả đã được tượng trưng trong một vầng trăng rất đẹp. Câu thơ “Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung” vừa khép lại bức tranh tứ bình về cảnh và người Việt Bắc, đồng thời cũng khép lại khúc tình ca hào hùng về cuộc kháng nỗi nhớ của người ra đi và người ở lại đều không thể không nhắc đến những ngày đầu của cuộc kháng chiến, đó là khi “Giặc đến giặc lùng”, từ “lùng” đã thể hiện sự nguy hiểm của quân thù. “Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây” cùng với “Đất trời ta cả chiến khu một lòng” đã thể hiện sự gắn bó sâu sắc của thiên nhiên và con người trong cuộc kháng chiến. Ở đây, thiên nhiên đã trở thành một sinh thể có linh hồn, chở che cho bộ đội, bủa vây quân thù, hình ảnh “Núi giăng thành lũy sắt dày” kết hợp với kết cấu trùng điệp “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”, giàu sức gọi, góp phần thể hiện cho sức mạnh của dân tộc, sức mạnh không thể bị hủy diệt. Điệp từ “nhớ” kết hợp với những cụm từ “nhớ từ”, “nhớ sang”, những địa danh gắn liền với những chiến công, tất cả cho ta cảm nhận về nỗi nhớ trải dài khắp chiến khu Việt Bắc. Lời thơ mạnh mẽ, hình ảnh thơ sinh động cùng việc sử dụng những biện pháp nghệ thuật tu từ đã giúp nhà thơ khẳng định sức mạnh vĩ đại của dân tộc, đồng cũng bộc lộ nỗi nhớ và niềm tri ân sâu sắc đối với núi rừng Việt Bắc thấm đẫm tình thương.“Những đường Việt Bắc của taêm đêm rầm rập như là đất rungQuân đi điệp điệp trùng trùngÁnh sao đầu súng bạn cùng mũ nanDân công đỏ đuốc từng đoànBước chân nát đá, muôn tàn lửa đêm thăm thẳm sương dàyèn pha bật sáng như ngày mai vui chiến thắng trăm miềmHoà Bình, Tây Bắc, iện Biên vui vềVui từ ồng Tháp, An KhêVui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”Câu thơ “Những đường Việt Bắc của ta” đã thể hiện sự gắn bó sâu sắc của mảnh đất Việt Bắc, của chiến khu Việt Bắc với nhân dân với đất nước bởi đây là quê hương cách mạng là trái tim của cả nước trong những tháng ngày kháng chiến chống Pháp. Biện pháp nghệ thuật tư từ so sánh “như là đất rung” kết hợp với hình ảnh “quân đi điệp điệp trùng trùng” đã thể hiện sức mạnh vĩ đại của đoàn quân ra tiền tuyến, đoàn quân dài như vô tận rất kỳ vĩ và hào thơ “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” đã kết hợp ba biện pháp nghệ thuật tu từ ẩn dụ, nhân hóa, hoán dụ, hình ảnh “ánh sao đầu súng” gợi nhắc đến hình ảnh “đầu súng trăng treo” trong thơ của Chính Hữu và “súng ngửi trời” trong thơ Quang Dũng thể hiện tầm cao của người lính, đây là một hình ảnh đẹp và rất giàu chất thơ. Hình ảnh đoàn dân công vô cùng mạnh mẽ, đông đúc “đỏ đuốc từng đoàn”, “bước chân nát đá”, gợi nhắc đến thành ngữ “Chân cứng đá mềm” khẳng định sức mạnh và sự vững chãi, bền bỉ của con người Việt Nam trước bão tố chiến tranh. Trong đêm tối của chiến tranh, quân và dân ta luôn hướng về ngày mai, luôn nuôi dưỡng niềm tin mãnh liệt về một ngày mai chiến thắng. Và cuối cùng tin vui đã về trên khắp đất nước, những người chiến sĩ về Hà Nội, về miền xuôi, nhưng vẫn đọng lại trong trái tim họ biết bao kỷ niệm, biết bao yêu thương, họ mang theo niềm vui toàn thắng trong những ngày cuộc kháng chiến khép lại.“Ai về ai có nhớ không?Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa trưa rực rỡ sao vàngTrung ương, Chính phủ luận bàn việc côngiều quân chiến dịch thu đôngNông thôn phát động, giao thông mở đườngGiữ đê, phòng hạn, thu lươngGửi dao miền ngược, thêm trường các khu...Ở đâu u ám quân thùNhìn lên Việt Bắc Cụ Hồ sáng soiỞ đâu đau đớn giống nòiTrông về Việt Bắc mà nuôi chí lăm năm ấy ai quênQuê hương cách mạng dựng nên Cộng hoàMình về mình lại nhớ taMái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.”Những câu thơ cuối cùng khép lại đoạn trích là quang cảnh Việt Bắc sau chiến thắng Điện Biên Phủ, khắp nơi hân hoan trong những màu sắc rực rỡ vui tươi của nắng vàng, của cờ đỏ. Trung ương Đảng và Chính phủ thu xếp trở về thủ đô, trong không khí nhộn nhịp, miền Bắc ngày một đổi mới với chính sách mới của Đảng và nhà nước “Giữ đê, phòng hạn, thu lương/Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...”. Đồng thời đoạn thơ cũng là lời ngợi ca những công lao vĩ đại của Bác Hồ kính yêu, là lời tri ân sâu sắc với miền núi rừng Việt Bắc thân thương, dù mai này đã về thủ đô nhưng trong tim những người chiến sĩ cách mạng luôn giữ một góc trong tim dành cho Việt Bắc, dành cho “Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào”.Cả đoạn trích như một bản nhạc nhịp nhàng, tha thiết được hòa tấu bởi là khúc tình ca và khúc trường ca về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, về những con người kháng chiến anh hùng. Thông qua khúc nhạc đẹp đẽ, hào hùng ấy nhà thơ đã bộc lộ được những tình cảm tha thiết, sâu đậm của mình dành cho vùng núi rừng Việt Bắc, ngợi ca tình đồng chí, nghĩa tình đồng bào. Qua đó, tác giả cũng nhắn nhủ đến người đọc đừng quên những trang sử hào hùng của dân tộc, những trang sử thấm đẫm máu và nước mắt, cũng là những những trang sử thấm đượm tình cách mạng, lòng yêu nước sâu Phân tích Việt Bắc mẫu 3Tố Hữu 1920 – 2002 tên thật là Nguyễn Kim Thành, quê Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo ham thích văn chương. Chính truyền thống gia đình và cảnh sắc thơ mộng của xứ Huế cùng những nét văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc góp phần quan trọng trong việc hình thành hồn thơ Tố Hữu là một nhà thơ lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Một nhà thơ được đánh giá là người mở đường, là cánh chim đầu đàn của thơ ca cách mạng. Có thể nói ở Tố Hữu, con người chính trị với con người nhà thơ thống nhất là một, sự nghiệp thơ gắn liền với sự nghiệp cách mạng và trở thành một bộ phận của sự nghiệp cách mạng. Con đường thơ của ông luôn song hành với các giai đoạn cách mạng, phản ánh những chặng đường cách mạng đồng thời thể hiện sự vận động của tư tưởng và nghệ thuật của nhà thơ Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác trong thời kì dân ta đánh thắng quân giặc ở trận Điện Biên Phủ, năm 1954, khi chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi ông đã bắt tay vào sáng tác tác phẩm này, nhằm ca ngợi sự nghiệp cách mạng, xây dựng cuộc sống mới. Bài thơ được coi là tiếng hát nghĩa tình sắt son thủy chung của mình với ta, của chiến sĩ, cán bộ, đồng bào đối với chiến khu Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến, đối với Đảng và Bác đầu bài thơ là cuộc chia tay của những người kháng chiến và những người dân nơi đây; là sự chia li của kẻ đi, người ở đầy lưu luyến, bồi hồiMình về mình có nhớ taMười lăm năm ấy thiết tha mặn về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?Tiếng ai tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước điÁo chàm đưa buổi phân lyCầm tay nhau biết nói gì hôm nay…Hai khổ thơ nói lên tình quân dân đậm đà. Họ đã có “mười lăm năm” gắn bó, “thiết tha mặn nồng” bên nhau. Mười lăm năm – một quãng thời gian dài, biết bao nhiêu kỷ niệm. Họ đã vào sinh ra tử với nhau, cùng nhau sống, chiến đấu vì tổ quốc. Ở mảnh đất Việt Bắc ấy, tình quân dân chan hòa nồng thắm. Nhà thơ sử dụng hai ngôi xưng “mình” và “ta” thể hiện sự gắn bó keo sơn với nhau, mình với ta tuy hai mà là một. Cái tình cảm ấy giống như những người thân trong gia đình mình câu thơ đầu là lời của người ở, những người dân Việt bắc hỏi đầy lưu luyến rằng người chiến sĩ có còn nhớ mười lăm năm thiết tha mặn nồng ấy. Không biết rằng những người chiến sĩ về có còn nhớ không, nhớ con người, nhớ núi rừng nơi ở bốn câu thơ sau, những người chiến sĩ cách mạng cũng như đáp lại những ân tình của bà con Việt Bắc. Trong lòng người chiến sĩ ấy cũng lưu luyến những kỉ niệm nơi đây không khác gì so với người dân. Các chiến sĩ như cảm nhận được sự tha thiết trong câu hỏi của những người dân ấy. Lòng các chiến sĩ bâng khuâng, bồn chồn không muốn bước. Có thể nói các từ láy ấy đã thể hiện phần nào cảm xúc trong lòng người chiến sĩ. Nghệ thuật hoán dụ với hình ảnh “áo chàm” chính là để chỉ người dân Việt Bắc bịn rịn trong màu áo ấy đưa tiễn các chiến sĩ về với thủ đô. Kẻ ở người đi mà cầm tay nhau nhưng lại không biết nói lên điều gì. Có lẽ không cần nói mà cả hai đều biết được những ý nghĩa trong lòng nhau. Dường như mọi lưu luyến đều nằm trong cái nắm tay nghĩa tình thơ thứ ba, tiếp tục là nỗi lòng của người ở lạiMình đi, có nhớ những ngàyMưa nguồn suối lũ, những mây cùng mùMình về, có nhớ chiến khuMiếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?Mình về, rừng núi nhớ aiTrám bùi để rụng, măng mai để giàMình đi, có nhớ những nhàHắt hiu lau xám, đậm đà lòng sonMình về, còn nhớ núi nonNhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt MinhMình đi, mình có nhớ mìnhTân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?Lời thơ như lời tâm sự da diết của người dân Việt Bắc dành cho các chiến sĩ bộ đội và đó cũng là lời nhắc nhở gửi đến người đi. Điệp từ “nhớ” lặp đi lặp lại mang nhiều sắc thái ý nghĩa nhớ là nỗi nhớ, là lời nhắc nhớ. Hàng loạt những câu hỏi tu từ bày tỏ tình cảm tha thiết đậm đà của Việt Bắc. Tình cảm lưu luyến của người đưa tiễn, gửi đi nỗi nhớ mong, gửi lại niềm thương theo cáchThuyền về có nhớ bến chăngBến thì một dạ khăng khăng đợi Bắc nhắc người cán bộ chiến sĩ đừng quên những năm tháng gian lao vất vả, hoạt động chiến đấu trong điều kiện trang bị tiếp tế còn thô sơ, thiếu thốn. Đó là những tháng ngày cùng chịu chung cảnh thiên nhiên khắc nghiệt “mưa nguồn”, “suối lũ”, mây mù; hay là những tháng ngày gian khổ bát cơm chấm muối nhưng vẫn chan chứa biết bao tình xúc thương nhớ xa vắng thả vào không gian rừng núi, gợi nỗi niềm dào dạtMình về, rừng núi nhớ aiTrám bùi để rụng, măng mai để ảnh “Trám bùi để rụng, măng mai để già” gợi nỗi buồn thiếu vắng – “Trám rụng, măng già” không ai thu hái. Nỗi bùi ngùi như thúc vào lòng kẻ ở người về sau chiến thắng và chính trên cái nền của sự chiến thắng đó, đã làm cho nỗi buồn nhớ trở nên trong sáng. Việt Bắc vẫn “một dạ khăng khăng đợi thuyền”, đồng thời nhắc nhở khéo léo tấm “lòng son” của người cán bộ chiến sĩ. Xin đừng quên thời kì “kháng Nhật, thuở còn Việt Minh”, đừng quên cội nguồn cách mạng, đừng quên chăm lo giữ gìn sự nghiệp cách đi, mình có nhớ mìnhTân Trào, Hồng Thái, mái đình cây thơ trên là nỗi lòng thương nhớ, là lời tâm tình của Việt Bắc. Đoạn thơ trên tiêu biểu sắc thái phong cách Tố Hữu, giọng điệu thơ ngọt ngào truyền cảm, mang đậm phong vị ca dao. dân gian, đề cập đến con người và cuộc sống kháng chiến. Thông qua hình tượng Việt Bắc, tác giả ca ngợi phẩm chất cách mạng cao đẹp của quân dân ta, khẳng định nghĩa thủy chung son sắt của người cán bộ, chiến sĩ đối với Việt tráng ca anh hùng của một dân tộc thắng trận sau hơn ba ngàn ngày máu lại những ân tình của người ở lại, lời người đi cũng tha thiết không kémTa với mình, mình với taLòng ta sau trước mặn mà đinh ninhMình đi, mình lại nhớ mìnhNguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…Nhớ gì như nhớ người yêuTrăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nươngNhớ từng bản khói cùng sươngSớm khuya bếp lửa người thương đi từng rừng nứa bờ treNgòi Thia sông áy, suối Lê vơi đầyTa đi, ta nhớ những ngàyMình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…Thương nhau, chia củ sắn lùiBát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùngNhớ người mẹ nắng cháy lưngịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngôNhớ sao lớp học i tờồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoanNhớ sao ngày tháng cơ quanGian nan đời vẫn ca vang núi sao tiếng mõ rừng chiềuChày đêm nện cối đều đều suối xa…Người ra đi, khẳng định, đinh ninh rằng lòng mình trước sau như trước, luôn mặn mà. Và cái nghĩa tình đó còn được so sánh với nước trong nguồn, dạt dào, vô tận, không bao giờ cạn. Và những người chiến sĩ vẫn mãi đinh ninh một lời thề sắc son với người dân Việt Bắc. Từng kỉ niệm gắn bó như được thuật lại trong từng câu nói của người ra đi. Từ kỉ niệm về bát cơm thì sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. Nhớ cả những người mẹ Việt Bắc với dáng hình địu con lên nương hái bắp. Một vẻ đẹp cần cù chịu thương chịu khó của nhân dân. Không những thế cả những giây phút cùng nhau học cái chữ quốc ngữ nữ. Đó là thái độ trật tự nghiêm túc của tất cả mọi người. Và những giờ liên hoan trong ánh đuốc lập lòe, những ngày tháng ấy như mãi khắc sâu vào trong tâm trí của người ra đi. Để mãi khi về đến thủ đô gió ngàn vẫn không sao quên tiếng mõ rừng chiều cùng chày đêm nện cối. Qua đây ta thấy được những tấm lòng của cả hai bên dành cho nhau vô cùng nồng ấm và tha anh chiến sĩ lại kể tiếp về những hình ảnh thiên nhiên nơi đây hiện lên qua những lời kể ấy thật sự rất đẹp. Những câu thơ như vẽ lên một bức tranh tứ bình nơi đây, bốn mùa thiên nhiên hiện lên vô cùng đẹpTa về, mình có nhớ taTa về ta nhớ những hoa cùng ngườiRừng xanh hoa chuối đỏ tươièo cao nắng ánh dao gài thắt xuân mơ nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng sợi giangVe kêu rừng phách đổ vàngNhớ cô em gái hái măng một mìnhRừng thu trăng rọi hòa bìnhNhớ ai tiếng hát ân tình thủy thể nói, con người, cảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc đã in đậm trong lòng các chiến sĩ cách mạng. Khi trở về thủ đô, họ nhớ tất cả những gì gắn với Việt Bắc. Đó là những con người chân chất, hiền hậu của núi rừng cô em gái hái măng một mình, đó là cảnh thiên nhiên tươi đẹp hùng vĩ của Việt Bắc. Có lẽ đây là đoạn thơ hay nhất đẹp nhất, trữ tình nhất trong bài Việt thế rồi không ai bảo ai cả kẻ ở người đi đều nhớ đến những ngày ráo riết chuẩn bị hành quân cho cuộc chiến đấu chống lại chiến dịch của thực dân Pháp. Khi ấy chính là lúc tình quân dân thể hiện rõ nhấtNhớ khi giặc đến giặc lùngRừng cây núi đá ta cùng đánh TâyNúi giăng thành lũy sắt dàyRừng che bộ đội rừng vây quân thùMênh mông bốn mặt sương mùất trời ta cả chiến khu một về ai có nhớ không?Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo GiàngNhớ sông Lô, nhớ phố RàngNhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà…Đó là những tháng ngày các chiến sĩ và người dân cùng vào sinh ra tử, cùng nhau chiến đấu chống giặc. Những tháng ngày đó, núi rừng Việt Bắc đã che chắn cho bộ đội khỏi vòng vây quân thù, người dân Việt Bắc đã bên cạnh, gắn bó, giúp đỡ, sẻ chia ngọt bùi với các bộ đội. Hơn bao giờ hết, tình quân dân thật đẹp biết bao. Lại một lần nữa, những chiến sĩ bộ đội khẳng định tình cảm sắt son của mình qua các điệp từ “nhớ”. Người đi nhớ Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Cao-Lạng, Nhị Phân tích Việt Bắc mẫu 4Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ tố Hữu và cũng là thành tựu xuất sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ ra đời nhân một sự kiện lịch sử tháng 10 năm l954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi trở về miền điểm xuất phát ấy, bài thơ ngược về quá khứ để tưởng nhớ một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, để nói lên nghĩa tình gắn bó thắm thiết với Việt Bắc, với Đảng và Bác Hồ, với đất nước và nhân dân - tất cả là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn để dân tộc ta vững vàng bước tiếp trên con đường cách mạng. Nội dung ấy được thể hiện bằng hình thức đậm tính dân tộc. Bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ Tố cảnh sáng tác tạo nên một sắc thái tâm trạng đặc biệt, đầy xúc động bâng khuâng Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay... Đó là cuộc chia tay của những người từng sống gắn bó suốt mười lăm năm ấy, có biết bao kỉ niệm ân tình, từng sẻ chia mọi cay đắng ngọt bùi, nay cùng nhau gợi lại những hồi ức đẹp đẽ, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung và hướng về tương lai tươi sáng. Chuyện ân tình cách mạng đã được Tố Hữu khéo léo thể hiện như tâm trạng của tình yêu lứa biến tâm trạng như trong tình yêu lứa đôi được tổ chức theo lối đối đáp quen thuộc của ca dao, dân ca, bên hỏi, bên đáp, người bày tỏ tâm sự, người hô ứng, đồng vọng. Hỏi và đáp đều mở ra bao nhiêu kỉ niệm về một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, mở ra bao nhiêu nỗi niềm nhớ thương. Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là độc thoại, là sự biểu hiện tâm tư, tình cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng hồi tưởng của chủ thể trữ tình, cảnh và người Việt Bắc hiện lên thật đẹp. Nỗi nhớ thiết tha của người cán bộ sắp về xuôi đã khắc sâu thiên nhiên núi rừng Việt Bắc với vẻ đẹp vừa hiện thực, vừa thơ mộng, thi vi, gợi rõ những nét riêng biệt, độc đáo, khác hẳn những miền quê khác của đất nước. Chỉ những người đã từng sống ở Việt Bắc, coi Việt Bắc cũng là quê hương thân thiết của mình mới có nỗi nhớ thật da diết, những cảm nhận thật sâu sắc, thấm thía về ánh nắng ban chiều, ánh trăng buổi tối, những bản làng mờ trong sương sớm, những bếp lửa hồng trong đêm khuya, những núi rừng sông suối mang những cái tên thân thuộc - tất cả là khoảng thời gian và không gian lóng lánh kỷ niệmNhớ gì như nhớ người yêu...Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ về Việt Bắc là sự hoà quyện thắm thiết giữa cảnh với người, là ấn tượng không thể phai mờ về những người dân Việt Bắc cần cù trong lao động, thuỷ chung trong nghĩa tìnhTa về, mình có nhớ ta...Nhớ ai Tiếng hát ân tình thuỷ chungCó thể thấy thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với bao vẻ đẹp thật đa dạng, phong phú, sinh động, thay đổi theo từng thời tiết, từng bó với từng khung cảnh ấy là hình ảnh những con người bình thường người đi làm nương rẫy, người đan nón, người hái măng,... Bằng những việc làm tưởng chừng nhỏ bé của mình, họ đã góp phần tạo nên sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng chiến. Chính nghĩa tình của nhân dân với cán bộ, bộ đội, sự đồng cảm và san sẻ, cùng chung mọi gian khổ và niềm vui, cùng gánh vác mọi nhiệm vụ nặng nề, khó khăn,... tất cả càng làm Việt Bắc thêm ngời sáng trong tâm trí của nhà thơ. Việt Bắc - đó là hình ảnh những mái nhà "hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son", là hình ảnh người mẹ trong cái "nắng cháy lưng - Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô", là những tháng ngày đồng cam cộng khổ Thương nhau, chia củ sắn lùiBát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng,...Có thể nói, âm hưởng trữ tình vang vọng suốt bài thơ đã tạo nên khúc ca ngọt ngào, đằm thắm của tình đồng chí, nghĩa đồng bào, của tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu dòng hồi tưởng của chủ thể trữ tình, bài thơ dẫn người đọc vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu với không gian núi rừng rộng lớn, những hoạt động tấp nập, những hình ảnh hào hùng, những âm thanh sôi nổi, dồn dập, náo nức. Cách mạng và kháng chiến đã xua tan vẻ âm u, hiu hắt của núi rừng, đồng thời khơi dậy sức sống mạnh mẽ của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Bài thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng ca, mang dáng vẻ một sử thi hiện đại, bởi vì chỉ cần phác hoạ khung cảnh hùng tráng ở Việt Bắc, Tố Hữu đã cho thấy khí thế vô cùng mạnh mẽ của cả một dân tộc đứng lên chiến đấu vì Tổ quốc độc lập, tự doNhững đường Việt Bắc của ta...Đèn pha bật sáng như ngày mai tộc ấy đã vượt qua bao thiếu thốn, gian khổ, hi sinh để lập nên những kì tích, những chiến công gắn với những địa danh Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên,... Nhưng Tố Hữu không chỉ miêu tả khí thế hào hùng của cuộc kháng chiến mà còn đi sâu lí giải những cội nguồn sức mạnh đã dẫn tới chiến thắng. Đó là sức mạnh của lòng căm thù Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai, sức mạnh của tình nghĩa thuỷ chung Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, của sự hoà quyện gắn bó giữa con người với thiên nhiên - tất cả tạo thành hình ảnh đất nước đứng lênNhớ khi giặc đến giặc lùng...Đất trời ta cả chiến khu một biệt, với những lời thơ trang trọng mà thiết tha, Tố Hữu đã nhấn mạnh, khẳng định Việt Bắc là quê hương của Cách mạng, là căn cứ địa vững chắc, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ bao tình cảm, suy nghĩ, niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước. Trong những năm tháng đen tối trước Cách mạng, hình ảnh Việt Bắc hiện dần từ mờ xa mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù đến xác định như một chiến khu kiên cường, nơi nuôi dưỡng bao sức mạnh đấu tranh, nơi khai sinh những địa danh sẽ mãi mãi đi vào lịch sử dân tộcMình về, còn nhớ núi non...Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây những ngày kháng chiến gian lao, Việt Bắc là nơi có Cụ Hồ sáng soi, có Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công. Để khẳng định niềm tin yêu của cả nước với Việt Bắc, Tố Hữu lại dùng những vần thơ rất mộc mạc, giản dị mà thắm thiết nghĩa tìnhỞ đâu đau đớn giống nòi...Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hoà .Nghệ thuật biểu hiện của bài thơ đậm đà tính dân tộc. Điểm đáng chú ý trước hết là Tố Hữu đã phát huy được nhiều thế mạnh của thể lục bát truyền thống. Cấu tứ của bài thơ là cấu tứ ca dao với hai nhân vật trữ tình là ta và mình, người ra đi và người ở lại hát đối đáp với nhau. Trong cuộc hát đối đáp chia tay lịch sử này, người ở lại lên tiếng trước, nhớ về một thời xa hơn, thời đấu tranh gian khổ trước Cách mạng, sau đó người ra đi nối tiếp nhớ lại kỉ niệm thời chín năm kháng thơ rất chú ý sử dụng kiểu tiểu đối của ca dao, chẳng những có tác dụng nhấn mạnh ý mà còn tạo ra nhịp thuyên chuyển, cân xứng, hài hoà, làm cho lời thơ dễ nhớ, dễ thuộc, thấm sâu vào tâm tưMình về rừng núi nhớ aiTrám bùi để rụng măng mai để già;...Điều quân chiến dịch thu đôngNông thôn phát động giao thông mở đường,...Về ngôn ngữ thơ, Tố Hữu chú ý sử dụng lời ăn tiếng nói của nhân dân rất giản dị mộc mạc nhưng cũng rất sinh động để tái hiện lại một thời cách mạng và kháng chiến đầy gian khổ mà dạt dào tình nghĩa. Đó là thứ ngôn ngữ rất giàu hình ảnh cụ thểNghìn đêm thăm thẳm sương dày;Nắng trưa rực rỡ sao tràng;...Và cũng là thứ ngôn ngữ rất giàu nhạc điệuChày đêm nện cối đều đều suối xa;Đêm đêm rầm rập như là đất rung;...Đặc biệt, thơ Tố Hữu sử dụng rất nhuần nhuyễn phép trùng điệp của ngôn ngữ dân gianMình về, mình có nhớ ta;Mình về, có nhớ chiến khu;Nhớ sao lớp học i tờ;Nhớ sao ngày tháng cơ quan,;Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều,...Tất cả tạo ra một giọng điệu trữ tình nghe thiết tha, êm ái, ngọt ngào như âm hưởng lời ru, đưa ta vào thế giới của kỉ niệm và tình nghĩa thuỷ thơ là khúc ca ân nghĩa, là hồi tưởng đầy xúc động và ân tình của Tố Hữu về chặng đường mười lăm năm đã qua của đất nước từ khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 đến hoà bình lập lại năm 1954, từ đó mà hướng về tương lai tươi sáng, nhắc nhớ tâm nguyện thuỷ chung. Viết về nghĩa tình dân tộc và hướng về đồng bào mình, Tố Hữu đã phát huy được hình thức nghệ thuật mang tính dân tộc, trong đó nổi bật là cách sử dụng thể thơ lục bát và ngôn ngữ thơ đậm sắc thái dân gian. Có thể coi Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến mà cội nguồn sâu xa của nó là tình yêu quê hương đất nước, là niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, là truyền thống ân nghĩa, đạo lí thuỷ chung của dân tộc Việt Phân tích Việt Bắc mẫu 5Văn học kháng chiến đến ngày nay vẫn chiếm một vị trí quan trọng đối với nền văn học Việt Nam. “Việt Bắc” của Tố Hữu được đánh giá là tác phẩm đồ sộ, nhiều ý nghĩa sâu sắc, là tiếng nói của quân dân ta trong kháng chiến trường kỳ. Phân tích Việt Bắc, ta sẽ thấy được tình cảm sắt son, đoàn kết một lòng của nhân dân qua ngòi bút tài hoa, trữ tình của tác Hữu là nhà thơ hiện đại lớn, được mệnh danh là ngọn cờ đầu của phong trào thơ Cách mạng Việt Nam. Cuộc đời nghệ thuật của ông luôn song hành cùng những chặng đường Cách mạng của dân tộc, khiến thơ ông mang tính biên niên sử, hào hùng nhưng vẫn vô cùng sâu sắc. Lời thơ Tố Hữu giản dị, ấm áp nhưng đậm chất chính thơ “Việt Bắc” sáng tác sau khi chiến thắng thực dân Pháp, là một trong những tác phẩm nổi bật nhất của Tố Hữu. Trong đầu những năm 40 của thế kỉ trước, Việt Bắc là căn cứ địa quan trọng của cuộc chiến. Nơi đây, nhân dân ta cùng với các chiến sĩ cùng sống, đùm bọc và chiến đấu. Đến năm 1954, sau chiến thắng vang dội, Trung ương Đảng và Chính phủ rời căn cứ địa Việt Bắc về Hà Nội. Nhân sự kiện trọng đại ấy của dân tộc, tác giả Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Thông qua lời thơ, tác giả đã gợi lại tình quân dân thắm thiết, ân tình và sâu nặng trong cuộc kháng chiến, là tiếng lòng của quân dân ta trong máu lửa, gian hết, tác giả đưa ra lời của người ở lại, là tiếng lòng của nhân dân Việt Bắc khi cán bộ, chiến sĩ về xuôi. Với thể thơ lục bát, lời thơ như tâm tình, thủ thỉ, lưu luyến không thôi“Mình về mình có nhớ taMười lăm năm ấy thiết tha mặn nồngMình về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”Phân tích Việt Bắc để thấy những câu thơ chính là tâm trạng của người ở lại trong sự níu kéo và tiếc nuối khi phải chia xa. Họ phải xa những người chiến sĩ Cách mạng đã bao nhiêu năm gắn bó. Tác giả sử dụng hai đại từ xưng hô “ta” và “mình” vô cùng khéo léo. Nó đã thể hiện sự gắn bó khăng khít, son sắt và chung thủy của cán bộ và nhân dân. Ở đây, Tố Hữu đưa ra quãng thời gian cụ thể là “mười lăm năm ấy”. Đó là quãng thời gian rất dài, gắn liền với cuộc đấu tranh ác liệt của quân và nhân dân ta với thực dân Pháp tàn bạo. Đó cũng chính là quãng thời gian mà tình cảm giữa quân và dân vô cùng tha thiết, mặn nồng. Giờ đây, cả người ra đi và người ở lại tràn ngập nỗi nhớ thương, nhìn đâu đâu cũng thấy bóng dáng của những điều xưa cũ, còn vẹn nguyên và tinh khôi ở trong lòng. Tố Hữu dường như đã gieo vào lòng người đọc cái cảm giác vấn vương một cách lạ trạng quyến luyến, bịn rịn của người ở lại khiến cho người ra đi không khỏi bồn chồn. Dường như không ai muốn rời bước chân đi“Tiếng ai tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ bồn chồn bước điÁo chàm đưa buổi phân liCầm tay nhau biết nói gì hôm nay”Những lời tâm tình, thủ thỉ của người ở lại đã khiến cho người về xuôi không đành lòng bước đi. Những lời tâm sự ấy giờ đây khiến những thương nhớ và kỉ niệm như chực trào, không thể nào quên. Tất cả tâm trạng ấy được tác giả gói gọn trong hai từ “bâng khuâng”. Nó như dùng dằng, níu kéo chẳng muốn bước đi, lại như nỗi buồn man mác khi nghĩ tới cảnh chia xa. Cảm xúc ấy khó mà có thể diễn tả bằng lời một cách dễ này đây chính tâm trạng của người ra đi và người ở lại đều không thể lý giải được là tại sao lại như vậy. Phải chăng tình yêu đã quá lớn và kỉ niệm đã quá đầy để có thể quay mặt bước đi. Suốt 15 năm sống và gắn bó với mảnh đất nơi đây, đồng đội và đồng bào đã phải trải qua bao nhiêu cay đắng, ngọt bùi, san sẻ cho nhau từng bữa cơm giấc ngủ. Những năm tháng gian khổ ấy đâu chỉ kể với nhau trong vài câu chữ như thế này, nhưng chính câu chữ đã khiến cho cảm xúc tràn ra, không thể thôi nhớ và thôi mong. Người ra đi đã đáp trả lại tình cảm người ở lại“Ta với mình, mình với taLòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”“Ta” và “mình” dường như hòa quyện với nhau thành một thể thống nhất, không tác rời nhau. Người ra đi một mực khẳng định rằng “mặn mà đinh ninh”. Hai từ “đinh ninh” như ghim chặt vào lòng người đọc tấm lòng son sắt và thủy chung trước sau như một. Đó là tình cảm hết sức thiêng liêng và cao tích Việt Bắc mới biết khi nhớ về núi rừng việt bắc tác giả nhớ tất thảy thiên nhiên và con người nơi đây. Mọi thứ hiện lên đều rất sống động, đậm nghĩa, vẹn tình. Chỉ với vài bước phác họa bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người nơi đây hiện lên một cách vẹn tròn, ý nghĩa, tươi đẹp nhất “Ta về mình có nhớ taTa về ta nhớ những hoa cùng ngườiRừng xanh hoa chuối đỏ tươiĐèo cao ánh nắng dao gài thắt lưngNgày xuân mơ nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng sợi giangVe kêu rừng phách đổ vangNhớ cô em gái hái măng một mìnhRừng thu trăng rọi hòa bìnhNhớ cô em gái hái măng một mình”Một bức tranh tứ bình tuyệt đẹp, sống động và tinh khôi và núi rừng Việt Bắc. Trong bức tranh ấy không chỉ có hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp, hùng vĩ mà còn xuất hiện thêm hình ảnh con người chân chất, mộc mạc nhưng lại tình cảm và ý nghĩa biết bao. Có lẽ đây là đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất, trữ tình nhất trong toàn bộ bài thơ Việt Bắc. Nó chính là điểm sáng để cả bài thơ tràn đầy tình yêu thương và tinh thần lạc quan từ “nhớ” được tác giả sử dụng lặp đi lặp lại rất nhiều lần trong suốt tác phẩm. Nó đã khiến cho nỗi nhớ trong cả bài thơ dường như tràn ra lênh láng, cảm xúc của tác giả cũng như vỡ òa, dội lên mãnh liệt, tràn lên mặt thơ Tố Hữu không chỉ nhớ đến cảnh vật và con người Việt Bắc mà hơn hết, ông còn nhớ những cuộc chiến tranh ác liệt gian khổ đã diễn ra trong suốt quãng thời gian dài“Nhớ khi giặc đến giặc lùngRừng cây núi đá ta cùng đánh tâyNúi giăng thành lũy sắt dàyRừng che bộ đội rừng vây quân thù”Đến đây, giọng thơ không còn tha thiết, thủ thỉ tâm tình nữa mà trở nên hào hùng, vang dội vô cùng khi nói đến cuộc chiến oanh liệt của quân dân ta. Những trận chiến ấy xảy ra giữa núi rừng Việt Bắc, để lại từng dấu ấn nơi đây. Và không chỉ con người đồng lòng, mà thiên nhiên dường như cũng đang sát cánh bên người chiến sĩ để “vây quân thù”.Qua những vần thơ này, dường như hào khí Đông A lại trỗi dậy, mãnh liệt và tràn đầy niềm tự hào. Để đến tận mai sau, chiến thắng vẻ vang và tình đoàn kết đồng lòng sẽ mãi mãi được khắc ghi và nhắc thể thơ lục bát, giọng thơ trữ tình cùng các hình ảnh độc đáo, “Việt Bắc” đã khắc họa thành công sự kiện quan trọng của dân tộc. Hơn cả, bài thơ đã tái hiện được một chặng đường hào hùng, tình cảm sắt son, gắn bó của quân và dân – yếu tố quan trọng mang tới chiến thắng vẻ vang của nhân dân ta. Đó là những con người nhỏ bé nhưng phi thường, hết lòng vì dân, vì nước, vì Cách mạng, đoàn kết, thuỷ chung với lý tưởng cao bạn đọc cùng tải về bản DOC hoặc PDF để xem đầy đủ nội dung-Mời các bạn tham khảo thêm các bài viết dưới đây của chúng tôiSoạn bài lớp 12 Việt BắcBài giảng Việt Bắc Ngữ văn 12Bài viết số 3 lớp 12 đề 1 Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc - Tố HữuGiáo án Ngữ văn bài Việt BắcÔn thi THPT Quốc Gia môn Văn theo chuyên đề Bài thơ Việt Bắc của Tố HữuPhân tích cảm hứng về quê hương đất nước qua các bài thơ Bên kia sông Đuống, Đất Nước và Việt BắcBình giảng bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc của Tố HữuBình giảng khổ thơ thứ 7 bài Việt Bắc-Trên đây đã giới thiệu tới bạn đọc tài liệu Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Chắc hẳn qua bài viết bạn đọc đã nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung kiến thức của bài viết rồi đúng không ạ? Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm nhiều tài liệu để học tập tốt hơn nhé. Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các bạn học sinh tài liệu đề thi học kì 1 lớp 12, Thi thpt Quốc gia môn Toán, Thi thpt Quốc gia môn Văn, đề thi học kì 2 lớp 12, Thi thpt Quốc gia môn Lịch sử mà VnDoc tổng hợp và đăng tải. Có phải bạn đang tìm kiếm chủ đề về => Tài liệu mẫu phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7 đặc sắc phải không? Nếu đúng như vậy thì mời bạn xem nó ngay tại đây. Xem thêm các bài tập khác tại đây => Blog Video về Tài liệu mẫu phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7 đặc sắc Wiki về Tài liệu mẫu phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7 đặc sắc Tài liệu mẫu phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7 đặc sắc - Các bạn học sinh lớp 12 đang tìm tài liệu văn mẫu Phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7 đầy đủ và chi tiết nhất? Bạn muốn sử dụng tài liệu đó để làm cho bài viết của mình thêm phong phú và sâu sắc? Đây là bài văn mẫu mà bạn đang tìm kiếm. Cùng theo dõi và sử dụng đúng cách để bài văn đạt điểm cao nhé! Tình quân dân trong những năm kháng chiến đã trở thành nguồn cảm hứng sâu sắc để các nhà văn, nhà thơ Việt Nam sáng tác. Tiêu biểu là tác phẩm Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu. Toàn bộ tác phẩm là một khúc ca đầy cảm xúc về tình quân dân trong những năm tháng gian khó. Đặc biệt là phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7 các em sẽ hiểu thêm về tình bạn sâu nặng cũng như bức tranh thiên nhiên tươi đẹp của vùng Việt Bắc. Chi tiết phần mở bài Phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7 Trước khi đi vào phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7, các em cần giới thiệu về tác giả Tố Hữu. Nhà thơ Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành. Ông sinh năm 1920, mất năm 2002. Ông là một người con xứ Huế. Quê ông ở làng Phù Lai nay là xã Quảng Thọ, Quảng Điền, Thừa Thiên Huế. Anh sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo có truyền thống văn thơ. Vì vậy, ngay từ nhỏ, nhà thơ Tố Hữu đã sớm được làm quen và tiếp cận với văn học từ rất sớm. Trong nền văn học Việt Nam, ông được biết đến như một nhà thơ tiêu biểu cũng như một nhà chính trị có tầm ảnh hưởng lớn. Ông đã tham gia vào hệ thống chính trị và giữ các chức vụ quan trọng như Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng. Bộ trưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, đối với độc giả Việt Nam, Tố Hữu là một nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam. Mỗi tác phẩm của nhà thơ là một câu chuyện đầy cảm xúc và gắn bó với các giai đoạn cách mạng của đất nước. Vì sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước đầy khó khăn, gian khổ nên nhà thơ Tố Hữu đã sớm có ý thức trách nhiệm của một người con hy sinh thân mình vì sự phát triển của đất nước. Cũng đã vào sinh ra tử cùng đồng đội trên mọi mặt trận, cũng trải qua cuộc đời tù đày đau thương nhưng nhà thơ Tố Hữu vẫn luôn nuôi dưỡng một tinh thần yêu nước nồng nàn. Chính vì vậy, các tác phẩm cũng luôn mang đến cho người đọc cảm xúc về tình yêu quê hương cháy bỏng. Trong số những tác phẩm tiêu biểu của Tố Hữu, Việt Bắc là bài thơ chiếm nhiều cảm tình nhất. Bài thơ gồm 18 khổ. Mỗi khổ thơ đều thấm đượm nghĩa tình của quân dân Việt Bắc với các chiến sĩ Cách mạng. Đặc biệt, khổ thơ 7 để lại nhiều cảm xúc về tình cảm con người chân thành và sâu sắc nhất bức tranh thiên nhiên Việt Bắc. “Tôi về rồi, bạn có nhớ tôi không Tôi về, tôi nhớ những bông hoa cho anh ấy. Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi Đèo cao thắt lưng dao nắng nhẹ. Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón, chuốt từng sợi. Ve sầu gọi rừng đổ vàng Nhớ em gái tôi hái măng một mình Mùa thu rừng mặt trăng tỏa sáng hòa bình Nhớ ai câu hát ân tình thủy chung ”. Chi tiết cơ thể Luận điểm 1 phân tích hai câu đầu. Đây là hai câu thơ nói lên nỗi nhớ da diết của kẻ ở, kẻ đi. “Tôi về rồi, bạn có nhớ tôi không Tôi về, tôi nhớ những bông hoa cho anh ấy. Ở núi rừng Việt Bắc, hoa và người là những gì đẹp nhất nơi đây. Có thể thấy, nhà thơ Tố Hữu đã sử dụng nghệ thuật biểu đạt tượng trưng “hoa ban” để thể hiện thiên nhiên tươi đẹp của núi rừng Tây Bắc. Nhắc đến hoa chúng ta có thể cảm nhận được sức sống tươi mới và sắc màu rực rỡ của đất trời. Đọc hai câu thơ ta thấy rõ, cùng người xuôi ngược, trong nỗi nhớ, hoa và người ở đây là hình ảnh cùng xuất hiện, cùng tỏa sáng không thể tách rời. Nếu như hoa là sự kết hợp giữa vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên thì con người là sản phẩm tuyệt vời của tạo hóa. Vì vậy, khi người về nhớ hoa với họ không chỉ là nỗi nhớ đơn thuần mà còn thể hiện sự trân trọng vẻ đẹp tâm hồn và ngoại hình của người ở lại. Đề 2 Phân tích 8 câu thơ tiếp theo Phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7, người đọc không chỉ cảm nhận rõ nét nỗi nhớ của người đi, người về mà còn thấy được bức tranh thiên nhiên bốn mùa tươi đẹp, rực rỡ của chiến khu Việt Bắc. , đầy sức sống. Đầu tiên là vẻ đẹp của bức tranh mùa đông Việt Bắc với “ Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi Đọc hai câu thơ lên, thoạt nhìn bức tranh hiện lên với một gam màu lạnh lẽo. Đó là màu xanh bao la tĩnh lặng của những cánh rừng. Gợi cảm giác về một miền quê thanh bình, xa xôi nhưng yên bình. Tuy nhiên, ngay lúc đó, một màu nóng xuất hiện, đó là màu đỏ tươi của hoa chuối. Màu đỏ ấy làm nổi bật sức sống, của cả cảnh rừng xa. Qua bước đột phá này, nhà thơ Tố Hữu muốn gửi gắm thông điệp về màu đỏ của cách mạng. Dường như màu đỏ là màu thắng lợi của cuộc Cách mạng được nhen nhóm, và xua tan đi cái lạnh thấu xương của núi rừng trong mùa đông lạnh giá. Tiếp theo là hai câu thơ vẽ nên bức tranh mùa xuân tươi đẹp với ” Mùa xuân rừng nở trắng / Nhớ người đan nón đan từng sợi. Chỉ với hình ảnh trái mơ trong rừng, nhà thơ Tố Hữu đã mở ra một không gian núi rừng Tây Bắc vào mùa xuân đầy sức sống cho người đọc. Hoa mai là loài hoa đặc trưng của vùng núi nơi đây. Với màu trắng tinh khôi, nhẹ nhàng và mộng mơ của hoa mai đã làm bừng sáng cả bức tranh và cả khu rừng. Có thể nói đây cũng là một hình ảnh mang tính biểu tượng. Gợi lên vẻ đẹp trong sáng, vô tư trong lòng người dân vùng núi Tây Bắc. Đi qua mùa xuân, chúng ta tiếp tục được chiêm ngưỡng bức tranh tuyệt đẹp của mùa hè. Bức tranh thiên nhiên mùa hè Việt Bắc hiện lên trong tâm trí, nỗi nhớ của người qua đường không chỉ là ánh đèn, đường nét hay ánh đèn mà còn là âm thanh vang vọng của tiếng ve gọi hè Tiếng ve kêu rừng đổ vàng / Em nhớ chị em hái măng một mình ”. Ở Việt Bắc, người ta cảm nhận rất rõ điều đó khi mùa hè đến, bởi lúc đó rừng hổ phách cũng chuyển màu. Nếu khi mùa xuân còn đó nụ hoa còn ẩn trong kẽ lá mà chỉ khi nghe tiếng ve kêu thì hoa đã nở rộ rồi. Ở đây, tác giả sử dụng từ “đổ” khá tinh tế và độc đáo. Nó diễn tả sự đột ngột và nhanh chóng trong quá trình biến đổi của núi rừng ngay sau khi có gió thổi, tiếng ve kêu như một cơn mưa hoa vàng. Cuối cùng, bức tranh thiên nhiên bốn mùa Việt Bắc kết thúc bằng hình ảnh đêm thu với ánh trăng soi qua tán lá. ” Rừng thu trăng chiếu hòa bình ”. Thật là một hình ảnh yên bình và huyền diệu. Đó là khung cảnh gợi nên sự lãng mạn, thích hợp để thể hiện những tâm tư tình cảm như những bản tình ca. Bài thơ báo trước một cuộc sống hạnh phúc và bình yên. Qua đó, tác giả cũng thể hiện tình cảm hòa quyện giữa thiên nhiên và vũ trụ bằng tình cảm chân thành giữa cư dân và du khách. Đề 3 Phân tích hình tượng con người Việt Bắc trong khổ thơ 7 Khi phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7 không thể không phân tích hình ảnh nỗi nhớ của người về. Có thể thấy, trong mỗi bức tranh thiên nhiên của núi rừng Việt Bắc, tác giả luôn lồng ghép, đan xen hài hòa những hình ảnh về con người. Có thể thấy, con người rất gắn bó với thiên nhiên khiến núi rừng bớt hoang vu, hẻo lánh. Giữa thiên nhiên tươi đẹp ấy, con người thật dễ thương, chất phác, nhân hậu, luôn yêu nghề. Trong bức tranh mùa đông, con người hiện lên với tư thế kiêu hãnh, mạnh mẽ trong cuộc lao động “dao trong thắt lưng”. Trong khi đó, ở bức tranh mùa xuân, hình ảnh con người Việt Bắc được khắc họa qua sự dịu dàng, cần mẫn của những cô gái dân tộc đang “chải chuốt từng sợi non sông”. Hình ảnh cô gái lao động được khắc họa đậm nét như một thước phim quay chậm, giúp người đọc cảm nhận rõ nét từng đường nét, hình khối, từng động tác tỉ mỉ của người lao động. Tiếp đến, trong bức tranh mùa hè được người ta thể hiện bằng hình ảnh “Cô bé hái măng một mình”. Qua đây, người đọc thấy được đức tính cần cù, cần cù, nhẫn nại của người dân Việt Bắc. Giữa núi rừng bao la ấy, con người vẫn miệt mài, tỉ mỉ. Nhớ về con người Việt Bắc, người đi xa về không chỉ nhớ đến hình ảnh lao động cần cù, vẻ đẹp của lòng hăng say lao động mà còn là “tiếng hát ân tình thủy chung”. Tình ca là tiếng nói tâm hồn, là tiếng nói tâm hồn của nhân dân Việt Nam đối với các chiến sĩ cách mạng. Chỉ có gắn bó với nhau trong gian khổ, đau thương, người ta mới cảm nhận hết được tấm chân tình của tình người. Kết luận chi tiết Qua bài Phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7 của nhà thơ Tố Hữu, chúng ta cảm nhận rõ được nỗi nhớ nhung của những người đi đường về làm chiến sĩ Cách mạng đối với nhân dân Việt Bắc. 15 năm ăn ở đây, làm nên thiên nhiên và con người Việt Bắc đã in sâu vào tâm trí và trái tim của những người lính. Mỗi âm thanh, mỗi hình ảnh, mỗi khoảnh khắc, mỗi ánh nhìn đều để lại trong lòng người những nỗi nhớ khôn nguôi. Với thể thơ lục bát, bài thơ Việt Bắc đã đi vào lòng người như một khúc tráng ca đi cùng năm tháng, ca ngợi tình quân dân trong những năm kháng chiến gian khổ. Tài liệu mẫu phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7 đặc sắc Tài liệu mẫu phân tích bài thơ Việt Bắc khổ đặc sắc [rule_3_plain] Tài liệu mẫu phân tích bài thơ Việt Bắc khổ đặc sắc Các bạn học sinh lớp 12 đang tìm kiếm tài liệu mẫu phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7 đầy đủ và chi tiết nhất? Các bạn muốn sử dụng tài liệu ấy để tham khảo cho bài làm văn của mình thêm phong phú và sâu sắc? Dưới đây là bài văn mẫu mà các bạn đang cần. Hãy theo dõi và sử dụng đúng cách để bài văn của các bạn đạt điểm cao nhé! Tài liệu mẫu phân tích bài thơ Việt Bắc khổ đặc sắc Tình quân dân trong những năm tháng kháng chiến đã trở thành nguồn cảm hứng sâu sắc cho các nhà văn, nhà thơ Việt Nam sáng tác. Tiêu biểu có tác phẩm Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu. Cả tác phẩm là một bài ca đầy xúc cảm về tình quân dân trong những năm gian khó. Đặc biệt phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7 các bạn sẽ hiểu thêm về mối thân tình sâu nặng cũng như bức tranh thiên nhiên tươi đẹp của vùng Việt Bắc. Chi tiết phần mở bài phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7 Trước khi đi vào phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7, các bạn cần giới thiệu qua về tác giả Tố thơ Tố Hữu có tên thật là Nguyễn Kim Thành. Ông sinh năm 1920 và mất năm 2002. Ông là người con của xứ Huế. Quê ông ở làng Phù Lai nay là xã Quảng Thọ, Quảng Điền, Thừa Thiên Huế. Ông sinh ra và lớn lên trong nhà nho nghèo có truyền thống thơ ca, văn chương. Do vậy, ngay từ thủa nhỏ, nhà thơ Tố Hữu đã sớm được làm quen và tiếp cận với nền văn học nền văn học Việt Nam, ông được biết đến là một nhà thơ tiêu biểu đồng thời cũng là một nhà chính trị gia có tầm ảnh hưởng lớn. Ông đã từng tham gia vào các công tác ở hệ thống chính trị và từng giữ các chức vụ quan trọng như như Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Chủ tịch thứ Nhất Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt nhiên, với độc giả Việt Nam, Tố Hữu là một nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam. Mỗi tác phẩm của nhà thơ là một câu chuyện đong đầy cảm xúc và gắn bó với những giai đoạn Cách mạng của đất nước. Chính vì sinh ra và lớn lên trong hoành cảnh dân tộc khó khăn, nhiều gian lao nên nhà thơ Tố Hữu sớm có ý thức trách nhiệm của một người con biết hy sinh vì sự nghiệp phát triển của đất nước. Ông cũng đã từng vào sinh ra tử cùng đồng đội trên khắp các mặt trận, cũng từng nếm trải cuộc sống lao tù đau khổ, nhưng nhà thơ Tố Hữu vẫn luôn nuôi dưỡng tinh thần yêu nước nồng nàn. Chính vì vậy những tác phẩm cũng luôn mang tới cho độc giả những cảm xúc về tình yêu quê hương đất nước cháy bỏng. Trong những tác phẩm tiêu biểu của Tố Hữu, Việt Bắc là bài thơ chiếm được nhiều tình cảm hơn cả. Bài thơ gồm 18 khổ thơ. Mỗi khổ thơ đều chan chứa ân tình quân dân Việt Bắc và các chiến sĩ Cách mạng. Trong đó, khổ 7 để lại nhiều xúc cảm về tình cảm con người chân thành và bức tranh thiên nhiên Việt Bắc sâu sắc hơn cả.“Ta về, mình có nhớ taTa về, ta nhớ những hoa cùng xanh hoa chuối đỏ tươiĐèo cao nắng ánh dao gài thắt xuân mơ nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng sợi kêu rừng phách đổ vàngNhớ cô em gái hái măng một mìnhRừng thu trăng rọi hoà bìnhNhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”. Phần chi tiết thân bài Luận điểm 1 phân tích hai câu đầu. Đây là hai câu thơ thể hiện nỗi nhớ da diết của người ở và người đi.“Ta về, mình có nhớ taTa về, ta nhớ những hoa cùng núi rừng Việt Bắc, thì hoa và người là những gì đẹp nhất nơi đây. Có thể thế thấy, nhà thơ Tố Hữu đã sử dụng cách nói nghệ thuật tượng trưng “hoa” để đại diện cho cả thiên nhiên tươi đẹp của vùng núi Tây Bắc. Nhắc đến hoa là chúng ta có thể cảm nhận được sức sống tươi mới cùng những màu sắc rực rỡ đầy sức sống của đất trời. Đọc hai câu thơ, chúng ta có thể thấy rõ, với những người về xuôi, trong nỗi nhớ của họ, hoa và người nơi đây là những hình ảnh cùng xuất hiện, cùng nhau soi chiếu không tách rời. Nếu như hoa là tổng hòa vẻ đẹp kỳ diệu của thiên nhiên thì còn người là sản phẩm tuyệt diệu của tạo hóa. Bởi thế, khi người về thấy nhớ những hoa cùng người, thì không chỉ nói về nỗi nhớ đơn thuần mà còn thể hiện ý ca ngợi vẻ đẹp cả tâm hồn lẫn dáng vẻ của người ở lại. Luận điểm 2 phân tích tám câu thơ tiếp theo Phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7, độc giả không chỉ cảm nhận rõ nỗi nhớ niềm thương của người ở và người về mà còn thấy hiện lên một bức tranh thiên nhiên bốn mùa của chiến khu Việt Bắc vô cùng đẹp đẽ, rực rỡ, căng tràn sức tiên là vẻ đẹp bức tranh mùa đông của Việt Bắc với “ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi/ Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Đọc hai câu thơ lên, chúng ta có thể mới đầu, bức tranh xuất hiện với một gam màu lạnh. Đó là màu xanh tĩnh mịch, mênh mông của những cánh rừng gia. Khơi gợi cảm giác một xứ sở bình yên, xa vắng nhưng êm đềm. Tuy nhiên, đúng lúc đó lại xuất hiện một gam màu nóng đó chính là màu đỏ tươi của hoa chuối. Màu đỏ đó làm nổi bật lên sức sống, của toàn bộ cảnh rừng xa vắng đó. Thông qua nét chấm phá này, nhà thơ Tố Hữu muốn gửi gắm thông điệp về màu đỏ của cách mạng. Dường như màu đỏ là màu chiến thắng của Cách mạng đã nhen nhóm, và xua đi cái lạnh thâm sâu của núi rừng trong mùa đông lạnh đến là hai câu thơ nói vẽ nên bức tranh mùa xuân tươi đẹp với “ Ngày xuân mơ nở trắng rừng/ Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang. ” Chỉ với hình ảnh mơ nở trắng rừng, nhưng nhà thơ Tố Hữu đã mở ra cho độc giả một không gian núi rừng Tây Bắc vào mùa xuân thật đầy sức sống. Hoa mơ là loài hoa đặc trưng của núi rừng nơi đây. Với màu trắng tinh khôi, dịu dàng và mơ mộng của hoa mơ là làm sáng bừng cả bức tranh, cả khu rừng. Có thể nói, đây cũng là hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng. Khơi gợi lên vẻ đẹp trong sáng, vô tư hồn hậu trong tâm hồn của con người vùng núi Tây qua mùa xuân, chúng ta tiếp tục ngắm bức tranh tươi đẹp của mùa hè. Bức tranh thiên nhiên mùa hè của Việt Bắc hiện lên trong tâm thức, nỗi nhớ của người đi không chỉ là ánh sáng, đường nét hay ánh sáng, mà còn có cả âm thanh vang vọng của tiếng ve gọi hè “ Ve kêu rừng phách đổ vàng/ Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Ở Việt Bắc, con người cảm nhận rất rõ khi hè về, bởi khi đó, rừng phách cũng chuyển màu. Nếu khi mùa xuân vẫn còn, nụ hoa vẫn còn náu kín trong những kẽ lá nhưng chỉ khi tiếng ve vừa cất lên, thì các hoa đã nhất loạt trổ vàng. Ở đây, tác giả sử dụng từ “đổ” khá tinh tế và độc đáo. Nó diễn tả sự đột ngột và mau lẹ trong quá trình thay đổi của núi rừng chỉ sau khi gió thổi, ve kêu giống như một trận mưa hoa vàng cùng, bức tranh bốn mùa của thiên nhiên Việt Bắc được kết thúc bằng hình ảnh đêm thu có ánh trăng rọi qua vòm lá. “ Rừng thu trăng rọi hoà bình”. Một hình ảnh thật thanh bình và huyền ảo. Đó là khung cảnh khơi gợi sự lãng mạn, phù hợp để bộ lộ những tâm tư tình cảm như những khúc ca giao duyên ân tình. Câu thơ báo hiệu một cuộc sống yên vui, hòa bình. Qua đó, tác giả cũng bộc lộ cảm nhận về sự hòa hợp thanh bình giữa thiên nhiên, vũ trụ với những tình cảm chân thành giữa người ở và người đi. Luận điểm 3 phân tích hình ảnh con người Việt Bắc trong khổ 7 Khi phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7, các bạn không thể không phân tích hình ảnh nỗi nhớ người ở của người về. Có thể thấy, trong mỗi bức tranh thiên nhiên của vùng núi Việt Bắc, tác giả luôn có kèm theo và đan xen hài hòa hình ảnh của con người. Có thể thấy, con người gắn bó rất khăng khít với thiên nhiên, khiến cho núi rừng giảm bớt đi sự hoang sơ, xa vắng. Giữa thiên nhiên tươi đẹp ấy, cong người được khắc hoạt thật dễ thương, bình dị, hồn hậu, luôn yêu lao động hăng bức tranh mùa đông, con người hiện lên với tư thế hiên ngang, vững mạnh trong lao động “dao gài thắt lưng”. Trong khi đó, ở bức tranh mùa xuân, hình ảnh con người Việt Bắc lại được miêu tả qua sự dịu dàng, cần mẫn của các cô gái dân tộc đang “chuốt từng sợi giang”. Hình ảnh cô gái đang làm được khắc họa rõ nét đậm đà như một thước phim quay chậm, giúp độc giả cảm nhận rõ rệt đường nét, hình khối, động tác tỉ mỉ của người lao đến, trong bức tranh mùa hè, con người được thể hiện của hình ảnh “Cô gái hái măng một mình”. Qua đây, độc giả có thể thấy sự chăm chỉ, cần mẫn và kiên nhẫn của con người Việt Bắc. Giữa núi rừng mênh mông ấy, con người vẫn chăm chỉ, tỉ mỉ làm về người Việt Bắc, người về xuôi không chỉ nhớ về hình ảnh chăm chỉ làm việc, vẻ đẹp của sự hăng say lao động mà còn cả “tiếng hát ân tình thuỷ chung”. Tiếng hát ân tình, là tiếng nói của tâm hồn, là tiếng lòng son sắc của người dân Việt Bắc dành cho các chiến sĩ Cách mạng. Chỉ có gắn bó với nhau trong những gian khổ, đau thương, con người ta mới có thể cảm nhận hết được sự chân thành của tình người. Phần kết bài chi tiết Qua quá trình phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7 của nhà thơ Tố Hữu, chúng ta có thể cảm nhận rõ nỗi nhớ da diết của người về xuôi là những chiến sĩ Cách mạng dành cho người dân Việt Bắc. 15 năm ăn ở nơi đây, khiến cho thiên nhiên lẫn con người Việt Bắc đã in sâu trong tâm trí và trái tim của người các chiến sĩ. Mỗi âm thanh, mỗi hình ảnh, mỗi khoảnh khắc, mỗi dáng vẻ đều để lại cho người về những niềm thương nỗi nhớ tha thể thơ lục bát, bài thơ Việt Bắc đã đi vào lòng người như một bài ca đi cùng năm tháng, ca ngợi tình quân dân trong những năm kháng chiến gian khó. Tài liệu mẫu phân tích bài thơ Việt Bắc khổ đặc sắc Tình quân dân trong những năm tháng kháng chiến đã trở thành nguồn cảm hứng sâu sắc cho các nhà văn, nhà thơ Việt Nam sáng tác. Tiêu biểu có tác phẩm Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu. Cả tác phẩm là một bài ca đầy xúc cảm về tình quân dân trong những năm gian khó. Đặc biệt phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7 các bạn sẽ hiểu thêm về mối thân tình sâu nặng cũng như bức tranh thiên nhiên tươi đẹp của vùng Việt Bắc. Chi tiết phần mở bài phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7 Trước khi đi vào phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7, các bạn cần giới thiệu qua về tác giả Tố thơ Tố Hữu có tên thật là Nguyễn Kim Thành. Ông sinh năm 1920 và mất năm 2002. Ông là người con của xứ Huế. Quê ông ở làng Phù Lai nay là xã Quảng Thọ, Quảng Điền, Thừa Thiên Huế. Ông sinh ra và lớn lên trong nhà nho nghèo có truyền thống thơ ca, văn chương. Do vậy, ngay từ thủa nhỏ, nhà thơ Tố Hữu đã sớm được làm quen và tiếp cận với nền văn học nền văn học Việt Nam, ông được biết đến là một nhà thơ tiêu biểu đồng thời cũng là một nhà chính trị gia có tầm ảnh hưởng lớn. Ông đã từng tham gia vào các công tác ở hệ thống chính trị và từng giữ các chức vụ quan trọng như như Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Chủ tịch thứ Nhất Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt nhiên, với độc giả Việt Nam, Tố Hữu là một nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam. Mỗi tác phẩm của nhà thơ là một câu chuyện đong đầy cảm xúc và gắn bó với những giai đoạn Cách mạng của đất nước. Chính vì sinh ra và lớn lên trong hoành cảnh dân tộc khó khăn, nhiều gian lao nên nhà thơ Tố Hữu sớm có ý thức trách nhiệm của một người con biết hy sinh vì sự nghiệp phát triển của đất nước. Ông cũng đã từng vào sinh ra tử cùng đồng đội trên khắp các mặt trận, cũng từng nếm trải cuộc sống lao tù đau khổ, nhưng nhà thơ Tố Hữu vẫn luôn nuôi dưỡng tinh thần yêu nước nồng nàn. Chính vì vậy những tác phẩm cũng luôn mang tới cho độc giả những cảm xúc về tình yêu quê hương đất nước cháy bỏng. Trong những tác phẩm tiêu biểu của Tố Hữu, Việt Bắc là bài thơ chiếm được nhiều tình cảm hơn cả. Bài thơ gồm 18 khổ thơ. Mỗi khổ thơ đều chan chứa ân tình quân dân Việt Bắc và các chiến sĩ Cách mạng. Trong đó, khổ 7 để lại nhiều xúc cảm về tình cảm con người chân thành và bức tranh thiên nhiên Việt Bắc sâu sắc hơn cả.“Ta về, mình có nhớ taTa về, ta nhớ những hoa cùng xanh hoa chuối đỏ tươiĐèo cao nắng ánh dao gài thắt xuân mơ nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng sợi kêu rừng phách đổ vàngNhớ cô em gái hái măng một mìnhRừng thu trăng rọi hoà bìnhNhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”. Phần chi tiết thân bài Luận điểm 1 phân tích hai câu đầu. Đây là hai câu thơ thể hiện nỗi nhớ da diết của người ở và người đi.“Ta về, mình có nhớ taTa về, ta nhớ những hoa cùng núi rừng Việt Bắc, thì hoa và người là những gì đẹp nhất nơi đây. Có thể thế thấy, nhà thơ Tố Hữu đã sử dụng cách nói nghệ thuật tượng trưng “hoa” để đại diện cho cả thiên nhiên tươi đẹp của vùng núi Tây Bắc. Nhắc đến hoa là chúng ta có thể cảm nhận được sức sống tươi mới cùng những màu sắc rực rỡ đầy sức sống của đất trời. Đọc hai câu thơ, chúng ta có thể thấy rõ, với những người về xuôi, trong nỗi nhớ của họ, hoa và người nơi đây là những hình ảnh cùng xuất hiện, cùng nhau soi chiếu không tách rời. Nếu như hoa là tổng hòa vẻ đẹp kỳ diệu của thiên nhiên thì còn người là sản phẩm tuyệt diệu của tạo hóa. Bởi thế, khi người về thấy nhớ những hoa cùng người, thì không chỉ nói về nỗi nhớ đơn thuần mà còn thể hiện ý ca ngợi vẻ đẹp cả tâm hồn lẫn dáng vẻ của người ở lại. Luận điểm 2 phân tích tám câu thơ tiếp theo Phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7, độc giả không chỉ cảm nhận rõ nỗi nhớ niềm thương của người ở và người về mà còn thấy hiện lên một bức tranh thiên nhiên bốn mùa của chiến khu Việt Bắc vô cùng đẹp đẽ, rực rỡ, căng tràn sức tiên là vẻ đẹp bức tranh mùa đông của Việt Bắc với “ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi/ Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Đọc hai câu thơ lên, chúng ta có thể mới đầu, bức tranh xuất hiện với một gam màu lạnh. Đó là màu xanh tĩnh mịch, mênh mông của những cánh rừng gia. Khơi gợi cảm giác một xứ sở bình yên, xa vắng nhưng êm đềm. Tuy nhiên, đúng lúc đó lại xuất hiện một gam màu nóng đó chính là màu đỏ tươi của hoa chuối. Màu đỏ đó làm nổi bật lên sức sống, của toàn bộ cảnh rừng xa vắng đó. Thông qua nét chấm phá này, nhà thơ Tố Hữu muốn gửi gắm thông điệp về màu đỏ của cách mạng. Dường như màu đỏ là màu chiến thắng của Cách mạng đã nhen nhóm, và xua đi cái lạnh thâm sâu của núi rừng trong mùa đông lạnh đến là hai câu thơ nói vẽ nên bức tranh mùa xuân tươi đẹp với “ Ngày xuân mơ nở trắng rừng/ Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang. ” Chỉ với hình ảnh mơ nở trắng rừng, nhưng nhà thơ Tố Hữu đã mở ra cho độc giả một không gian núi rừng Tây Bắc vào mùa xuân thật đầy sức sống. Hoa mơ là loài hoa đặc trưng của núi rừng nơi đây. Với màu trắng tinh khôi, dịu dàng và mơ mộng của hoa mơ là làm sáng bừng cả bức tranh, cả khu rừng. Có thể nói, đây cũng là hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng. Khơi gợi lên vẻ đẹp trong sáng, vô tư hồn hậu trong tâm hồn của con người vùng núi Tây qua mùa xuân, chúng ta tiếp tục ngắm bức tranh tươi đẹp của mùa hè. Bức tranh thiên nhiên mùa hè của Việt Bắc hiện lên trong tâm thức, nỗi nhớ của người đi không chỉ là ánh sáng, đường nét hay ánh sáng, mà còn có cả âm thanh vang vọng của tiếng ve gọi hè “ Ve kêu rừng phách đổ vàng/ Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Ở Việt Bắc, con người cảm nhận rất rõ khi hè về, bởi khi đó, rừng phách cũng chuyển màu. Nếu khi mùa xuân vẫn còn, nụ hoa vẫn còn náu kín trong những kẽ lá nhưng chỉ khi tiếng ve vừa cất lên, thì các hoa đã nhất loạt trổ vàng. Ở đây, tác giả sử dụng từ “đổ” khá tinh tế và độc đáo. Nó diễn tả sự đột ngột và mau lẹ trong quá trình thay đổi của núi rừng chỉ sau khi gió thổi, ve kêu giống như một trận mưa hoa vàng cùng, bức tranh bốn mùa của thiên nhiên Việt Bắc được kết thúc bằng hình ảnh đêm thu có ánh trăng rọi qua vòm lá. “ Rừng thu trăng rọi hoà bình”. Một hình ảnh thật thanh bình và huyền ảo. Đó là khung cảnh khơi gợi sự lãng mạn, phù hợp để bộ lộ những tâm tư tình cảm như những khúc ca giao duyên ân tình. Câu thơ báo hiệu một cuộc sống yên vui, hòa bình. Qua đó, tác giả cũng bộc lộ cảm nhận về sự hòa hợp thanh bình giữa thiên nhiên, vũ trụ với những tình cảm chân thành giữa người ở và người đi. Luận điểm 3 phân tích hình ảnh con người Việt Bắc trong khổ 7 Khi phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7, các bạn không thể không phân tích hình ảnh nỗi nhớ người ở của người về. Có thể thấy, trong mỗi bức tranh thiên nhiên của vùng núi Việt Bắc, tác giả luôn có kèm theo và đan xen hài hòa hình ảnh của con người. Có thể thấy, con người gắn bó rất khăng khít với thiên nhiên, khiến cho núi rừng giảm bớt đi sự hoang sơ, xa vắng. Giữa thiên nhiên tươi đẹp ấy, cong người được khắc hoạt thật dễ thương, bình dị, hồn hậu, luôn yêu lao động hăng bức tranh mùa đông, con người hiện lên với tư thế hiên ngang, vững mạnh trong lao động “dao gài thắt lưng”. Trong khi đó, ở bức tranh mùa xuân, hình ảnh con người Việt Bắc lại được miêu tả qua sự dịu dàng, cần mẫn của các cô gái dân tộc đang “chuốt từng sợi giang”. Hình ảnh cô gái đang làm được khắc họa rõ nét đậm đà như một thước phim quay chậm, giúp độc giả cảm nhận rõ rệt đường nét, hình khối, động tác tỉ mỉ của người lao đến, trong bức tranh mùa hè, con người được thể hiện của hình ảnh “Cô gái hái măng một mình”. Qua đây, độc giả có thể thấy sự chăm chỉ, cần mẫn và kiên nhẫn của con người Việt Bắc. Giữa núi rừng mênh mông ấy, con người vẫn chăm chỉ, tỉ mỉ làm về người Việt Bắc, người về xuôi không chỉ nhớ về hình ảnh chăm chỉ làm việc, vẻ đẹp của sự hăng say lao động mà còn cả “tiếng hát ân tình thuỷ chung”. Tiếng hát ân tình, là tiếng nói của tâm hồn, là tiếng lòng son sắc của người dân Việt Bắc dành cho các chiến sĩ Cách mạng. Chỉ có gắn bó với nhau trong những gian khổ, đau thương, con người ta mới có thể cảm nhận hết được sự chân thành của tình người. Phần kết bài chi tiết Qua quá trình phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7 của nhà thơ Tố Hữu, chúng ta có thể cảm nhận rõ nỗi nhớ da diết của người về xuôi là những chiến sĩ Cách mạng dành cho người dân Việt Bắc. 15 năm ăn ở nơi đây, khiến cho thiên nhiên lẫn con người Việt Bắc đã in sâu trong tâm trí và trái tim của người các chiến sĩ. Mỗi âm thanh, mỗi hình ảnh, mỗi khoảnh khắc, mỗi dáng vẻ đều để lại cho người về những niềm thương nỗi nhớ tha thể thơ lục bát, bài thơ Việt Bắc đã đi vào lòng người như một bài ca đi cùng năm tháng, ca ngợi tình quân dân trong những năm kháng chiến gian khó. Tài liệu mẫu phân tích bài thơ Việt Bắc khổ đặc sắc [rule_3_plain] Tài liệu mẫu phân tích bài thơ Việt Bắc khổ đặc sắc Các bạn học sinh lớp 12 đang tìm kiếm tài liệu mẫu phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7 đầy đủ và chi tiết nhất? Các bạn muốn sử dụng tài liệu ấy để tham khảo cho bài làm văn của mình thêm phong phú và sâu sắc? Dưới đây là bài văn mẫu mà các bạn đang cần. Hãy theo dõi và sử dụng đúng cách để bài văn của các bạn đạt điểm cao nhé! Tài liệu hướng dẫn cảm nhận vẻ đẹp bức tranh tứ bình trong khổ 7 bài thơ Việt Bắc do Đọc Tài Liệu biên soạn gồm những gợi ý chi tiết giúp em phân tích đề, lập dàn ý và tham khảo một số bài văn mẫu hay phân tích bức tranh thiên nhiên tứ bình trong bài Việt Bắc Tố Hữu.Hướng dẫn cảm nhận vẻ đẹp bức tranh tứ bình trong khổ thơ 7 bài Việt BắcĐề bài Cảm nhận vẻ đẹp bức tranh tứ bình trong đoạn thơ sau của bài "Việt Bắc" - Tố Hữu"Ta về mình có nhớ ta,...Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung".1. Phân tích đề- Yêu cầu về nội dung vẻ đẹp bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Phạm vi tư liệu, dẫn chứng các câu thơ, từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong khổ thơ thứ 7 bài Việt Bắc của Tố Phương pháp lập luận chính phân tích, nêu cảm Hệ thống luận điểm- Luận điểm 1 Bức tranh thứ nhất tả cảnh mùa đông- Luận điểm 2 Bức tranh thứ hai tả cảnh mùa xuân- Luận điểm 3 Bức tranh thứ ba nói về mùa hè- Luận điểm 4 Bức tranh thứ tư vẽ cảnh mùa Sơ đồ tư duySơ đồ tư duy vẻ đẹp bức tranh tứ bình trong khổ thơ thứ 7 bài Việt Bắc4. Lập dàn ý chi tiếta Mở bài- Việt Bắc, khúc ca trữ tình nồng nàn, đắm say về những lẽ sống lớn, ân tình lớn của con người cách Nỗi nhớ hướng về cảnh và người ở quê hương Việt Bắc là một nội dung nổi bật của bài thơ, được thể hiện hết sức xuất sắc trong đoạn thơ Thân bài- Hai dòng đầu của đoạn thơ vừa giới thiệu chủ đề của đoạn, vừa có tính chất như một sự đưa đẩy để nối các phần của bài thơ lại với nhau. Người ra đi đã nói rõTa về, ta nhớ những hoa cùng ngườiTrong nỗi nhớ của người đi, cảnh vật lẫn con người Việt Bắc hòa quyện với nhau thành một thể thống Trong tám dòng thơ tiếp theo, tác giả tạo dựng một bộ tranh tứ bình về Việt Bắc theo chủ đề Xuân - Hạ - Thu - Đông. Ngòi bút tạo hình của nhà thơ đã đạt tới trình độ cổ điển. Bút pháp miêu tả nhất quán câu lục để nói cảnh, còn câu bát dành để “vẽ” Bức thứ nhất của bộ tranh tả cảnh mùa đông. Màu hoa chuối đỏ tươi đã làm trẻ lại màu xanh trầm tịch của rừng già. Sự đối chọi hai màu xanh - đỏ ở đây rất ảnh con người được nói tới sau đó chính là điểm sáng di động của bức tranh. Tác giả thật khéo gài con dao ở thắt lưng người đi trên đèo cao khiến hình ảnh đó trở nên nổi Bức tranh thứ hai tả cảnh mùa xuân bằng gam màu trắng. Xuân về, rừng hoa mơ bừng nở. Màu trắng tinh khiết của nó làm choáng ngợp lòng người. Âm điệu hai chữ “trắng rừng” diễn tả rất đạt sức xuân nơi núi rừng và cảm giác ngây ngất trong lòng người ngắm Người đan nón có dáng vẻ khoan thai rất hòa hợp với bối cảnh. Từ “chuốt” vừa mang tính chất của động từ vừa mang tính chất của tính Bức tranh thứ ba nói về mùa hè. Gam màu vàng được sử dụng đắc địa. Đó là “màu” của tiếng ve quyện hòa với màu vàng của rừng phách thay lá. Do cách diễn đạt tài tình của rừng phách, ta có cảm tưởng tiếng ve đã gọi dậy sắc vàng của rừng phách và ngược lại sắc vàng này như đã thị giác hóa tiếng ảnh “cô gái hái măng một mình” xuất hiện đã cân bằng lại nét tả đầy kích thích ở trên. Nó có khả năng khơi dậy trong ta những xúc cảm ngọt Bức tranh thứ tư vẽ cảnh mùa thu với ánh trăng dịu mát, êm đềm. Trên nền bối cảnh ấy, “tiếng hát ân tình thủy chung” ai đó cất lên nghe thật ấm lòng. Đây là tiếng hát của ngày qua hay tiếng hát của thời điểm hiện tại đang ngân nga trong lòng người sắp phải giã từ Việt Bắc?c Kết bàiĐoạn thơ có vẻ đẹp lộng lẫy đã được viết bằng một ngòi bút điêu luyện. Đọc nó, ấn tượng sâu sắc còn lại là nghĩa tình đối với “quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa”.» Tham khảo thêm Hướng dẫn soạn bài Việt Bắc Tố Hữu Trên đây là dàn ý vẻ đẹp của bức tranh tứ bình trong khổ thơ 7 bài Việt Bắc bao gồm những ý cơ bản nhất cần triển khai trong bài phân tích. Dựa trên những ý này, hi vọng các em có thể tự xây dựng cho mình một dàn ý chi tiết hơn và triển khai thành bài viết hoàn chỉnh một cách dễ dàng. Có thể tham khảo bài văn mẫu dưới đây để mở rộng vốn từ ngữ khi trình văn mẫu tham khảo cảm nhận vẻ đẹp bức tranh tứ bình Việt Bắc"Việt Bắc" - bài thơ lục bát mang tầm vóc một trường ca dài 150 câu thơ, cảm xúc dâng lên mênh mông dào dạt. Bài thơ ra đời vào tháng 10 năm 1054, ngày giải phóng Thủ đô Hà Nội. Qua bài thơ, Tố Hữu nói lên một cách thiết tha mặn nồng mối tình Việt Bắc, mối tình cách mạng và kháng thơ 10 câu dưới đây trích từ câu 43 đến câu 52 trong bài thơ "Việt Bắc" nói lên bao nỗi nhớ vô cùng thắm thiết thủy chung đối với Việt Bắc"Ta về mình có nhớ ta,...Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung".Hai câu thơ đầu là lời hỏi - đáp của "ta", của người cán bộ kháng chiến về xuôi, ta hỏi mình "có nhớ ta". Dù về xuôi, dù xa cách nhưng lòng ta vẫn gắn bó thiết tha với Việt Bắc "Ta về, ta nhớ những hoa cùng người". Chữ "ta", chữ "nhớ" được điệp lại thể hiện một tấm lòng thủy chung son sắt. Nỗi nhớ ấy hướng về "những hoa cùng người", hướng về thiên nhiên núi rừng Việt Bắc và con người Việt Bắc thân yêu"Ta về, mình có nhớ ta,Ta về, ta nhớ những hoa cùng người".Hai chữ "mình – ta" xuất hiện ở tần số cao trong bài thơ, cũng như ở trong hai câu thơ này đã thể hiện một cách rất đẹp tình cảm lứa đôi hòa quyện trong mối tình Việt Bắc, đồng thời làm cho giọng thơ trở nên thiết tha bồi hồi như tiếng hát giao duyên thuở nào. Đó là sắc điệu trữ tình và tính dân tộc trong thơ Tố câu thơ tiếp theo, mỗi cặp lục bát nói lên một nỗi nhớ cụ thể về một cảnh sắc, một con người cụ thể trong 4 mùa đông, xuân, hè, mùa đông nhớ màu "xanh" của núi rừng Việt Bắc, nhớ màu "đỏ tươi" của hoa chuối như những ngọn lửa thắp sáng rừng xanh. Nhớ người đi nương đi rẫy "dao gài thắt lưng" trong tư thế mạnh mẽ hào hùng đứng trên đèo cao "nắng ánh...". Con dao của người đi nương rẫy phản quang "nắng ánh" rất gợi cảm"Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươiĐèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng".Màu "xanh" của rừng, màu "đỏ tươi" của hoa chuối, màu sáng lấp lánh của "nắng ánh" từ con dao; màu sắc ấy hòa hợp với nhau, làm nổi bật sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của thiên nhiên Việt Bắc, của con người Việt Bắc đang làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời trong kháng chiến. Tố Hữu đã có một cái nhìn phát hiện về sức mạnh tinh thần làm chủ tập thể của nhân dân ta do cách mạng và kháng chiến mang lại. Người lao động sản xuất thì hào hùng đứng trên "đèo cao" ngập nắng và lộng gió. Đoàn dân công đi chiến dịch thì "bước chân nát đá muôn tàn lửa bay". Người chiến sĩ ra trận mang theo sức mạnh vô địch của thời đại mới"Núi không đè nổi vai vươn tớiLá ngụy trang reo với gió đèo"."Lên Tây Bắc"Nhớ ngày xuân Việt Bắc là nhớ hoa mơ "nở trắng rừng". Chữ "trắng" là tính từ chỉ màu sắc được chuyển từ loại thành bổ ngữ "nở trắng rừng", gợi lên một thế giới hoa mơ bao phủ khắp mọi cánh rừng Việt Bắc màu trắng thanh khiết mênh mông và bao la. Cách dùng từ tài hoa của Tố Hữu gợi nhớ trong lòng ta câu thơ của Nguyễn Du tả một nét xuân thơ mộng, trinh bạch trong "Truyện Kiều""Cỏ non xanh tận chân trời,Cành lê trắng điểm một vài bông hoa".Nhớ "mơ nở trắng rừng", nhớ người thợ thủ công đan nón "chuốt rừng sợi giang". "Chuốt" nghĩa là làm bóng lên những sợi giang mỏng mảnh. Có khéo léo, kiên nhẫn, tỉ mỉ mới có thể "chuốt từng sợi giang" để đan thành những chiếc nón, chiếc mũ phục vụ kháng chiến, để anh bộ đội đi chiến dịch có "ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan". Người đan nón được nhà thơ nói đến tiêu biểu cho vẻ đẹp tài hoa, tính sáng tạo của đồng bào Việt Bắc. Mùa xuân Việt Bắc thật đáng nhớ"Ngày xuân mơ nở trắng rừng,Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang".Nhớ về Việt Bắc là nhớ mùa hè với tiếng ve kêu làm nên khúc nhạc rừng, là nhớ màu vàng của rừng phách, là nhớ cô thiếu nữ đi "hái măng một mình" giữa rừng vầu, rừng nứa, rừng trúc"Ve kêu rừng phách đổ vàng,Nhớ cô em gái hái măng một mình".Một chữ "đổ" tài tình. Tiếng ve kêu như trút xuống "đổ" xuống thúc giục ngày hè trôi nhanh, làm cho rừng phách thêm vàng. Xuân Diệu cũng có câu thơ sử dụng chữ "đổ" chuyển cảm giác tương tự "Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá..." Thơ duyên – 1938. Câu thơ "Nhớ cô em gái hái măng một mình" là câu thơ đặc sắc, giàu vần điệu, thanh điệu. Có vần lưng "gái" vần với "hái". Có điệp âm qua các phụ âm "m" "măng – một – mình". Đây là những vần thơ nên họa nên nhạc, tạo nên một không gian nghệ thuật đẹp và vui, đầy màu sắc âm thanh. "Cô em gái hái măng một mình" vẫn không cảm thấy lẻ loi, vì cô đang lao động giữa nhạc rừng, hái măng để góp phần "nuôi quân" phục vụ kháng chiến. Cô gái hái măng là một nét trẻ trung, yêu đời trong thơ Tố mùa hè rồi nhớ mùa thu Việt Bắc, nhớ khôn nguôi, nhớ trăng ngàn, nhớ tiếng hát"Rừng thu trăng rọi hòa bình,Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung".Trăng xưa "vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân". Trăng Việt Bắc trong thơ Bác Hồ là "trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa". Người cán bộ kháng chiến về xuôi nhớ vầng trăng Việt Bắc giữa rừng thu, trăng "rọi" qua tán lá rừng xanh, trăng thanh mát rượi màu "hòa bình" nên thơ. "Ai" là đại từ nhân xưng phiếm chỉ, "nhớ ai" là nhớ về tất cả, về mọi người dân Việt Bắc giàu tình nghĩa thủy chung, đã hi sinh quên mình cho cách mạng và kháng thơ trên đây dào dạt tình thương mến. Nỗi thiết tha bồi hồi như thấm sâu vào cảnh vật và lòng người, kẻ ở người về, mình nhớ ta, ta nhớ mình. Tình cảm ấy vô cùng sâu nặng biết bao ân tình thủy chung. Năm tháng sẽ qua đi, những tiếng hát ân tình thủy chung ấy mãi mãi như một dấu son đỏ thắm in đậm trong lòng thơ mang vẻ đẹp một bức tranh tứ bình đặc sắc, đậm đà phong cách dân tộc. Mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là mùa đông năm 1946, đến mùa thu tháng 10 – 1954, thủ đô Hà Nội được giải phóng - Tố Hữu cũng thể hiện nỗi nhớ Việt Bắc qua bốn mùa đông – xuân – hè – thu, theo dòng chảy lịch sử. Mỗi mùa có một nét đẹp riêng dạt dào sức sống màu xanh của rừng, màu đỏ tươi của hoa chuối, màu trắng của hoa mơ, màu vàng của rừng phách, màu trăng xanh hòa bình. Thiên nhiên Việt Bắc trong thơ Tố Hữu rất hữu tình, mang vẻ đẹp cổ điển. Con người được nói đến không phải là ngư, tiều, canh, mục mà là người đi nương đi rẫy, là người đan nón, là cô em gái hái măng, là những ai đang hát ân tình thủy chung. Tất cả đều thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của đồng bào Việt Bắc cần cù, làm chủ thiên nhiên và làm chủ cuộc đời trong lao động, kiên nhẫn, khéo léo, tài hoa, trẻ trung lạc quan yêu đời, ân tình thủy chung với cách mạng và kháng giọng thơ ngọt ngào, tha thiết bồi hồi cứ quyện lấy tâm hồn người đọc. Nỗi nhớ được nói đến trong "Việt Bắc" cũng như trong đoạn thơ này cho thấy một nét đẹp trong phong cách thơ Tố Hữu chất trữ tình công dân và tính dân tộc, màu sắc cổ điển và tính thời đại được kết hợp một cách hài tượng đẹp, phong phú, gợi cảm. Một không gian nghệ thuật đầy sức sống, với những đường nét, âm thanh, màu sắc, ánh sáng, cấu trúc cân xứng hài hòa, để lại trong tâm hồn ta một ấn tượng sâu sắc như Bác Hồ đã viết "Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay...".Thơ đích thực "là ảnh, là nhân ảnh..., từ một cái hữu hình nó thức dậy được những vô hình bao la" Nguyễn Tuân. Đoạn thơ trên đây gợi lên trong lòng ta tình mến yêu Việt Bắc, tự hào về đất nước và con người Việt Nam. Đoạn thơ "nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp", để ta thương, ta nhớ về mối tình Việt Bắc, mối tình kháng thêmBình giảng đoạn thơ thứ 3 bài Việt BắcVậy là Đọc Tài Liệu đã vừa hướng dẫn các em các bước làm bài văn phân tích, cảm nhận vẻ đẹp bức tranh tứ bình trong khổ thơ thứ 7 bài Việt Bắc. Ngoài ra các em cũng có thể tham khảo thêm những bài văn mẫu 12 khác được tổng hợp thường xuyên tại để tự rèn luyện kĩ năng làm văn, mở rộng vốn từ ngữ. Phân tích bài thơ Việt Bắc - Tố HữuPhân tích bài thơ Việt Bắc1. Bố cục bài thơ Việt Bắc2. Dàn ý phân tích Việt Bắc3. Sơ đồ tư duy phân tích Việt Bắc4. Phân tích Việt Bắc5. Phân tích bài thơ Việt Bắc6. Cảm nhận bài thơ Việt Bắc7. Phân tích Việt Bắc đoạn 18. Phân tích Việt Bắc đoạn 39. Phân tích bức tranh tứ bình Việt Bắc10. Phân tích 8 câu đầu Việt Bắc11. Phân tích Việt Bắc học sinh giỏiPhân tích bài thơ Việt Bắc của tác giả Tố Hữu - Việt Bắc là một tác phẩm nghệ thuật vừa mang tính nhân loại, vừa mang tính dân tộc sâu sắc. Trong sự nghiệp thơ ca của tác giả Tố Hữu, có thể nói Việt Bắc là một tác phẩm thơ lục bát hay bậc nhất với những lời thơ đằm thắm, thật trong trẻo mà sâu lắng. Để hiểu rõ hơn về nội dung cũng như những nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm Việt Bắc. Mời các bạn cùng tham khảo một số bài văn mẫu phân tích bài thơ Việt Bắc lớp 12, phân tích Việt Bắc học sinh giỏi cùng với mẫu dàn ý phân tích Việt Bắc trong bài viết sau đây của 4 mẫu Phân tích Tự tình 2 hay nhất6 mẫu phân tích Tây Tiến của Quang Dũng hay nhấtTop 5 mẫu phân tích bức tranh tứ bình Việt Bắc chi tiết và chọn lọcPhân tích Việt Bắc của Tố Hữu để thấy được không khí bịn rịn, nhớ thương của kẻ ở người đi khi Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Việt Bắc chính là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Bài thơ đã thể hiện được sự gắn bó, ân tình sâu nặng với nhân dân, đất nước trong niềm tự hào dân tộc… Sau đây là tổng hợp các bài văn mẫu phân tích bài thơ Việt Bắc, phân tích 8 câu đầu bài Việt Bắc, cảm nhận bài thơ Việt Bắc hay chọn lọc. Mời các bạn cùng tham các bạn cùng tham gia group Bạn Đã Học Bài Chưa để cập nhật các kiến thức mới bổ ích về học tập cùng với Hoatieu Bố cục bài thơ Việt Bắc2. Dàn ý phân tích Việt BắcI. Mở bài Phân tích bài Việt Bắc“Chín năm làm một Điện BiênNên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”.Tố Hữu.- Chặng đường kháng chiến chống Pháp đầy gian lao kết thúc với sự thắng lợi vẻ vang, vào thời gian trung ương Đảng và chính phủ từ chiến khu Việt Bắc dời về thủ đô Hà Nội. Trong buổi chia tay đầy lưu luyến với đồng bào Việt Bắc, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bài thơ là khúc hát giao duyên, là lời nhắn gửi tâm tình giữa người về xuôi và người ở lại, lời giãi bày tình cảm thắm thiết và cả nỗi nhớ trùng điệp của người ra đi. Việt Bắc chính là một trong những tác phẩm thơ thể hiện tài năng đỉnh cao, phong cách của Tố Hữu…II. Thân bài Phân tích bài Việt Bắc1. Hai mươi câu thơ đầu Kỉ niệm kháng chiến qua đó bộc lộ tình quân dân thắm thiết- Lời nhắn nhủ của người Việt Bắc+ Bốn dòng thơ đầu có hai câu hỏi tu từ, người ở lại hỏi người ra đi có còn nhớ “ta” là người nơi đây, hỏi nhớ “núi, nguồn” là nhớ mảnh đất đã từng chung sống, gắn bó 15 năm nghĩa tình. Câu hỏi mượn cớ nhưng thực ra là nhắc nhở, nhắn nhủ người về xuôi đừng quên mảnh đất tình người.→ Sự tình chung, tình cảm đạo lí. Hiệu quả của nghệ thuật câu hỏi tu từ để bộc lộ cảm xúc người nói, người ở lại kín đáo bộc lộ nỗi nhớ và tình yêu dành cho người về xuôi không phai mờ, trân trọng.+ Lời giãi bày của nhà thơ, tự nhắc nhở mình- Tâm sự của người về xuôi trong buổi chia tayBốn câu tiếp gợi ra khung cảnh chia tay. “Bên cồn gợi địa điểm chia tay ở bến sông nào đó, tiếng hát làm nền, nhân vật người đi kẻ ở bịn rịn, ban tay nắm chặt không rời, xúc động không nói nên lời. Tất cả tạo nên bầu không khí ngập tràn tình cảm, bin rịn, quyến luyến tình quân láy “bâng khuâng, bồn chồn” lột tả tâm trạng xốn xang, xao xuyến vì tình cảm bị níu kéo tả nỗi lòng thương mến của người ở lại dành cho con người, Việt Bắc.“Áo chàm” hình ảnh ẩn dụ Việt Bắc. Tượng trưng cho tâm hồn chất phác, chân thành, sâu nặng của người Việt Trong lúc chia tay, khơi gợi lại những tháng ngày gian khổ ở chiến khu“Mưa nguồn suối lũ” đất trời vần vũ, chìm trong mưa gió bão bùng, sự khắc nghiệt của mùa mưa Việt Bắc khiến cuộc sống trong rừng thêm khó khăn.“Những mây cùng mù” biện pháp chêm xen nhấn mạnh bầu trời u ám nặng nề, gian khổ đè nặng, ẩn dụ những ngày đầu khó khăn của kháng chiến“Miếng cơm chấm muối” vừa tả thực vừa ước lệch chỉ những thiếu thốn mọi mặt ở chiến gian khổ có nhau đến khi vui sướng người đi kẻ ở, giờ phút chia tay lòng người ở lại bỗng xôn ao vì tiếc nuối nhớ nhung. Biện pháp hoán dụ “rừng núi” chỉ người Việt Bắc, nỗi nhớ thêm kín đáo, đại từ “ai” phong cách dân gian mộc mạcNgười Việt Bắc nhắc đến kỉ niệm lịch sử khó quên, tự hào về mảnh đất anh hùng..⇒ Hình thức đối thoại, đoạn thơ diễn tả tình cảm người Việt Bắc dành cho cán bộ chiến sĩ thắm thiết, mặn Những tâm sự của người ra đi- “Ta với mình, mình với ta” là một sự khẳng định tấm lòng thủy chung, một lòng mặn mà của người đi kẻ Người ra đi luyến tiếc để nỗi nhớ vào thiên nhiên, nhớ về trăng vào những buổi chiều tà, nắng hiu hắt chiều sương, rừng nứa bờ tre… nhớ về thời gian bốn mùa cùng bên nhau- Nhớ về con người Việt Bắc dù có gian khó, gập ghềnh nhưng không chùn bước, cùng nhau chia sẻ ngọt bùi qua cơn đói rét. Nhớ về những kỉ niệm ấm áp bên bộ đội và đồng bào cùng các điệu hát, “lớp học I tờ”… hình ảnh mộc mạc của “cô em gái” lao động- Nhớ hình ảnh đoàn kết, hào hùng xông pha đánh giặc- Nhớ những chiến công lẫy lừng, niềm vui thắng trận⇒ Tình cảm người chiến sĩ dành cho con người và quê hương Việt Bắc cũng là tình cảm nhà thơ dành cho nhân dân, đất nước, tình yêu cuộc sống kháng chiến3. Bức tranh tứ bình qua cái nhìn đầy ưu ái của Tố Hữu- Lời tâm sự của người đi tha thiết, sâu lắng.“Hoa và người” nỗi nhớ hướng đến đối tượng cụ thểĐại từ nhân xưng “mình-ta” thể hiện tình yêu thương gắn bó sâu nặng của người đi kẻ ởĐiệp từ “ta về” đầu câu bộc lộ nỗi niềm xao xuyến, tâm trạng luyến lưu, vấn vương trong buổi chia tay, khơi gợi về quá Trong nỗi nhớ, bức tranh hiện ra có vẻ đẹp gắn bó giữa cảnh với ngườiCảnh thiên nhiên gói lại trong 4 mùa, thành bộ tranh tứ bình ghi lại bởi bút pháp chấm phá, hồn thơ cổ điểnVẻ đẹp mùa đông thiên nhiên có nét chấm phá sắc đỏ thắm tươi của hoa chuối, sự tương phản màu sắc gợi vẻ rực rỡ. Không gian bỗng trong sáng, ấm áp nhờ sắc đỏ, khiến nỗi nhớ thêm rạo rực lòng trời vào xuân, thiên nhiên Việt Bắc khoác trên mình gam màu xanh lá của núi rừng điểm tô dưới sắc trắng tinh khôi của hoa mơ. Động từ “nở” cùng tính từ “trắng” gợi những đóa hoa đang khoe sắc, độ xuân thì. Trong cảnh xuân con người miệt mài lao động, tạo bức tranh hài hòaSang hè, Việt Bắc mang sắc vàng tươi xinh của rừng phách. Phong cảnh mùa hạ hiện ra cổ điển, hữu tình ngời sáng, lung linhSau cùng là cảnh thu với vẻ đẹp của đêm trăng. Một nét huyền ảo, hiền hòa, mộng mơ. Vẻ đẹp mang theo bao ước mơ tươi sáng ở tương lai- Đoạn thơ khép lại bằng “khúc hát ân tình thủy chung”. Đó là tiếng hát của người ở lại, cũng là của người ra đi. Khúc hát của sự hy vọng thiết tha, tình quân dân đậm sâu.⇒ Đoạn thơ mở ra thế giới của cái đẹp bức tranh thiên nhiên đẹp, con người đẹp, trong đó là tấm lòng đẹp theo cùng nỗi nhớ đẹp. Thể hiện tình quân dân, tình đất nước cao đẹp của nhà Còn lại Việt Bắc rộng lớn trong tháng ngày ra trận hào Bút pháp sử thi tác giả khắc họa đoàn quân sục sôi khí thế trên những nẻo đường ra từ “đêm đêm” tả thời gian dài, từ láy “rầm rập” âm thanh phối hợp cùng nhịp thơ 2/2 gợi tả bước chân hành quân đều nhịp, chắc pháp nói quá “đất rung” chứng tỏ sức mạnh đoàn quân phi dung đoàn quân tiêu biểu cho dân tộc anh Đường hành quân gian lao, nguy hiểm nhưng chiến sĩ vẫn cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên, mây trời, niềm vui ngắm cảnh cho thấy lòng yêu đời, lạc quan, tin vào tương dụ “mũ nan” người chiến sĩ ra chiến trường mang theo mối tình quân dân để tiếp thêm động lực chiến đấuHình ảnh súng và sao cụ thể mà giàu tính biểu tượng. đầu súng gợi cảnh chiến tranh, sao vẽ ra khung cảnh thanh bình, tương lai tươi sáng hay ánh sao còn ẩn dụ cho đôi mắt người Hình ảnh đoàn dân côngÁnh đuốc sáng gợi không khí lao động hăng say, phá đá mở đường. Anhs sáng đó toát lên sức mạnh, khí thế và gieo lên niềm tin tươi ảnh “bước chân nát đá” tô đậm sức mạnh vĩ đại của đoàn dân dân công có vẻ đẹp của anh hùng ra trận, sức mạnh của chiến tranh nhân dân- Đoàn quân ra trận gởi về bao chiến công vang dội, làm chấn động địa kê các địa danh để thấy chiến thắng dồn dập, tưng bừngĐiệp từ “vui” diễn tả niềm hồ hởi, phấn khích vô biên trong chiến thắng⇒ Đoạn thơ tái hiện chân dung Việt Bắc trong những ngày ra trận, qua đó ca ngợi Việt Bắc anh hùng, đất nước anh Kết bài Phân tích bài Việt BắcViệt Bắc là bài thơ xuất sắc ghi đậm dấu ấn của Tố Hữu. Nó không chỉ hài hào giữa cổ điển và hiện đại, cảnh và người , tình và lí mà còn là chất thơ dân gian, sử thi anh hùng ca đặc biệt chỉ có ở Tố Hữu3. Sơ đồ tư duy phân tích Việt Bắc4. Phân tích Việt Bắc"Việt Bắc" là bài thơ kiệt tác của Tố Hữu, là một trong những thành tựu xuất sắc của thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp 1946 – 1954.Ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử hào hùng của dân tộc, sâu chiến thắng Điện Biên chấn động địa cầu, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Thủ đô Hà Nội rợp đỏ bóng cờ trong ngày hội non sông 10 – 1954, bài thơ "Việt Bắc" là tiếng hát nghĩa tình sắt son thủy chung của mình với ta, của chiến sĩ, cán bộ, đồng bào đối với chiến khu Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến, đối với Đảng và Bác Hồ của miền xuôi và miền ngược; là khúc tráng ca anh hùng của một dân tộc thắng trận sau hơn ba ngàn ngày máu thơ "Việt Bắc" mang tầm vóc một trường ca, dài 150 câu thơ lục bát, vừa mang âm điệu ca dao, dân ca đậm đà, vừa mang vẻ đẹp thơ ca cổ điển và thơ ca cách mạng dân đầu bài thơ là cảnh đưa tiễn của mình với ta, giữa kẻ ở với người về đã gợi ra một trời thương nhớ, lưu luyến, bồn chồn, thiết thaMình về mình có nhớ taMười lăm năm ấy thiết tha mặn nồngMình về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?Hình ảnh hoán dụ "áo chàm" hiện lên trong buổi tiễn đưa đã tạo nên màu sắc Việt Bắc, màu sắc núi rừng chiến khu, màu thương nhớ của mối tình quân dân "đậm đà lòng son" suốt mười lăm năm trời cách mạng và kháng chiếnÁo chàm đưa buổi phân liCầm tay nhau biết nói gì hôm nay...Có biết bao kỉ niệm sâu sắc ghi nhớ trong lòng, trải suốt một chặng đường dài gian lao và anh dũng, từ cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 đến chiến thắng Điện Biên và ngày miền Bắc được hoàn toàn giải phóng mùa thu năm 1954. Những câu hỏi của người ở lại hòa theo tiếng hát cứ quyện vào hồn, thấm sâu vào lòng người cán bộ kháng chiến về xuôi "Mình về có nhớ... Mình đi có nhớ...". Mình đi có nhớ những tháng ngày "nhóm lửa" gian khổ "Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù". "Mình về có nhớ chiến khu" thời đánh Pháp đuổi Nhật "Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai". Trong thiếu thốn gian lao, nợ nước thù nhà khắc sâu hồn người, càng chất chứa trong lòng, càng đè nặng đôi vai "Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn – Băm xương thịt mày tan mới hả" "Dọn về làng" – Nông Quốc Chấn. Mình đi..., mình về... có nhớ, nhớ trám bùi, nhớ măng mai, nhớ lau xám, nhớ những địa danh lịch sử, nhớ "Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?". Nhớ Việt Bắc là "Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh", nhớ đồng bào của dân tộc tuy nghèo khổ thiếu thốn nhưng tình nghĩa thủy chung son sắt với cách mạng. Những ẩn dụ, tượng trưng trong thơ Tố Hữu thật rung động, mở ra một không gian thương nhớ mênh mông với bao tình nghĩa vơi đầyMình đi có nhớ những nhàHắt hiu lau xám, đậm đà lòng dần Việt Bắc, trên đường về Thủ đô, về xuôi, người cán bộ kháng chiến mang theo bao nỗi nhớ, chất chứa dào dạt trong tâm hồn bao kỉ niệm đẹp và sâu sắcMình đi mình lại nhớ mìnhNguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu....Người đi, người về mang theo bao nỗi nhớ nhớ mình, nhớ trăng lên đầu núi, nhớ nắng chiều lưng nương, nhớ bản khói cùng sương, nhớ bếp lửa, nhớ rừng nứa bờ tre, nhớ ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê,...Một củ sắn lùi, một bát cơm sẻ nửa, chiếc chăn sui... trong những tháng ngày "đắng cay ngọt bùi" ấy, người về có bao giờ quên. Sự đồng cam cộng khổ đã làm cho tình thương nỗi nhớ thêm bồi hồi da diết"Thương nhau chia củ sắn lùi,Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng".Các từ ngữ thương nhau, sẻ nửa, đắp cùng như những ngọn lửa thắp sáng vần thơ, làm cho tình đồng bào đồng chí, tình quân dân, tình cá nươcs thêm ấm chiến khu, nhớ Việt Bắc, ta nhớ mình, nhớ người mẹ vất vả, tần tảo "nắng cháy lưng, địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô". Điệp ngữ "nhớ sao" diễn tả bao da diết bồn chồn nhớ sao lớp học i tờ, nhớ sao đuốc sáng những giờ liên hoan; nhớ tiếng hát giữa lưng đèo, vách núi, nhớ tiếng mõ rừng chiều, nhớ tiếng chày đêm nện cối... của khúc nhạc rừng chiến khu. "Những hoa cùng người" của Việt Bắc trong bốn mùa đã trở thành mảnh tâm hồn của ta cùng với bao nỗi nhớTa về mình có nhớ ta,Ta về ta nhớ những hoa cùng người,Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi,Đèo cao nắng ánh dao gài thắt xuân mơ nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng sợi kêu rừng phách đổ vàng,Nhớ cô em gái hái măng một thu trăng rọi hòa bình,Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy thơ như một bài hành mang vẻ đẹp cổ điển. Thiên nhiên và con người Việt Bắc được điểm nhãn trong bức tranh tứ bình đẹp như gấm như thêu. Màu đỏ tươi của hoa chuối giữa rừng xanh mùa đông và con dao quắm của người đi nương, đi rẫy "nắng ánh" trên đèo cao. Hoa mơ mùa xuân "nở trắng rừng" và người thợ thủ công khéo léo đan nón "chuốt từng sợi giang". Rừng phách mùa hè "đổ vàng" trong tiếng ve và hình ảnh cô gái Việt Bắc "một mình" đi hái măng giữa rừng tre rừng trúc. Tiếng hát ân tình thủy chung của ai cất lên trong rừng thu dưới ánh trăng xanh hòa bình mát dịu. Tất cả đều trở thành nỗi nhớ của ta, của người cán bộ kháng Hữu đã sống hết mình với Việt Bắc nên ông mới viết thật hay về nỗi nhớ ấy. Cảnh sắc thiên nhiên đẹp rực rỡ, đẹp dịu dàng và đầy sức sống. Cảnh bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, mùa nào cũng đẹp, một vẻ đẹp thơ mộng xinh tươi. Con người Việt Bắc được nói đến là con người lao động người đi làm nương rẫy, người thợ thủ công, cô em gái hái măng, và ai đang cất cao tiếng hát – tất cả đều tượng trưng cho những đức tính tốt đẹp của đồng bào các dân tộc Việt Bắc như cần cù, khéo léo, lạc quan yêu đời. Đọc bài thơ "Việt Bắc", ta không bao giờ quên được cảnh sắc thiên nhiên bốn mùa và những con người lao động đáng yêu Việt Bắc là nhớ chiến khu bất khả xâm phạm "Núi giăng thành lũy sắt dày". Nhớ Việt Bắc là nhớ thế trận chiến tranh nhân dân thần kì "Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây". Nhớ Việt Bắc là nhớ chiến khu với tất cả niềm tự hào về khối đại đoàn kết dân tộc làm nên sức mạnh Việt Nam để chiến đấu và chiến thắngMênh mông bốn mặt sương mù,Đất trời ta cả chiến khu một giả đã sáng tạo nên những hình ảnh ẩn dụ và nhân hóa ngợi ca chiến khu Việt Bắc mang tầm vóc dũng sĩ hiên ngang – cái nôi của cách mạng "dựng nên Cộng hòa". "Ai về ai có nhớ không?" – Ta nhớ nhiều và nhớ lắm. Nhớ những nẻo đường chiến dịch, nhớ những địa danh lịch sử mà bộ đội ta từng vào sinh ra tử, làm cho giặc Pháp bạt vía kinh hồn "nhớ Phủ Thông, đèo Giàng – Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng – Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà". Cả một trời thương nhớ không bao giờ có thể quên. Ta về ta nhớ những con đèo, những dòng sông, những ngọn núi..., nay "đã hóa tâm hồn" ta từ những tháng ngày gian khổ và oanh Việt Bắc là nhớ những nẻo đường chiến dịch, nhớ những đêm "rầm rập" hành quân ra trận. Là nhớ những binh đoàn "Quân đi điệp điệp trùng trùng" trong ánh sao đêm. Là nhớ những đoàn dân công vận tải "Bước chân nát đá" theo ngọn đuốc đỏ rực, cùng ánh "đèn pha bật sáng" của đoàn xe kéo pháo ra trận. Giọng thơ mang âm điệu anh hùng ca cất lên như những tiếng reo biểu lộ niềm vui trước khí thế chiến đấu và chiến thắng của quân và dân ta trong ba nghìn ngày khói lửaNhững đường Việt Bắc của ta,Đêm đêm rầm rập như là đất đi điệp điệp trùng trùngÁnh sao đầu súng bạn cùng mũ nanDân công đỏ đuốc từng đoànBước chân nát đá muôn tàn lửa bayNghìn đêm thăm thẳm sương dàyĐèn pha bật sáng như ngày mai lên."Ai về có nhớ không" – Ta về…, ta nhớ nhiều và nhớ lắm!" Nhớ Việt Bắc là nhớ "thủ đô gió ngàn" của cuộc kháng chiến, là nhớ "Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang", là nhớ "Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào", là nhớ "Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa"…Chiến khu Việt Bắc là nơi gửi gắm bao niềm tin của đồng bào và chiến sĩ trên mọi miền đất nước gần xa trong những năm dài chiến đấu gian khổ "Trông về Việt Bắc Cụ Hồ sáng soi… Nhìn lên Việt Bắc mà nuôi chí bền".Việt Bắc là nơi hội tụ mọi chiến công, chiến thắng của quân và dân ta từ khắp các chiến trường báo về; niềm vui thắng trận dâng lên dào dạtTin vui chiến thắng trăm miềnHòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về,Vui từ Đồng Tháp, An Khê,Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi đối đáp tâm tình của mình, ta được thể hiện trong phần thứ hai bài thơ "Việt Bắc" càng trở nên bồi hồi tha thiết; người ở, người về, miền xuôi và miền ngược càng gắn bó ân tình sâu nặng. Món quà Việt Bắc gửi về miền xuôi là đặc sản, là "cây nhà lá vườn", là hương vị của núi rừngMình về ta gửi về quê,Thuyền nâu, trâu mộng với bè nứa quà ấy càng làm cho tình nghĩa mình – ta, tình non nước thêm bền đẹp, càng làm cho cuộc sống, cuộc đời thêm đậm đà sắt son "Chàm nâu thêm đậm, phấn son chẳng nhòa… Phên nhà lại ấm, mái đình lại vui"."Việt Bắc" là bài ca tình nghĩa. Có biết bao câu hỏi vang lên dồn dập như nhắc nhở, như khắc sâu những tình cảm tốt đẹp của quân dân, của cách mạng và kháng chiến, của mình với taNhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?Bao giờ Việt Bắc tưng bừng thêm vui?Hai chữ "ngày mai" được điệp lại, mở ra một trời mơ ước bao la. Và đó cũng là niềm tin yêu của những tấm lòng ân tình, ân nghĩa thủy chungNgày mai về lại thôn hương,Rừng xưa núi cũ yêu thương lại mai rộn rã sơn khê,Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng…Việt Bắc sẽ đổi thay trong sự đổi thay của đất nước. Những nhà máy mới sẽ mọc lên. Phố phường sẽ mọc lên. Có nhiều mái trường ngói mới đỏ tươi cho tuổi thơ. Có "Chợ vui trăm nẻo về khơi nguồn hàng". Mối quan hệ đầy tình nghĩa giữa miền xuôi và miền ngược, sẽ trở nên sâu nặng, gắn bó thiết tha vô cùng. Muối Thái Bình, cày bừa Đông Xuất, mía đường tỉnh Thanh, chum vại Hương Canh… là đặc sản miền xuôi gửi lên miền ngược sẽ góp phần làm cho cuộc sống mới thêm ấm áp, đẹp tươi. Món quà miền xuôi gửi lên miền ngược là món quà tình nghĩa "Ai lên mình gửi cho anh với nàng"Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng,Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà món quà tình nghĩa ấy đã làm cho lời thề giữa mình với ta được khắc sâu, làm cho khúc tình ca non nước mãi mãi bền đẹpNước trôi lòng suối chẳng trôi,Mây đi mây vẫn nhớ hồi về mòn nhưng dạ chẳng mòn…Một trong những hình ảnh đẹp nhất được Tố Hữu tô đậm trong bài thơ là hình ảnh vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. ông Cụ đã từng hoạt động bí mật tại Cao Bằng. Người đã đến với Tân Trào trong những ngày Quốc dân đại hội. Người đã sống và đi thuyền trên sông Đáy. Bác đã đi chiến dịch Biên giới… nay Bác về xuôi cùng đoàn quân thắng trận. Núi rừng Việt Bắc "không nguôi nhớ Người", ngẩn ngơ "trông theo bóng Người". Bức chân dung lãnh tụ vừa cổ kính thiêng liêng vừa bình dị, gần gũiMình về với Bác đường xuôiThưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Ông Cụ mắt sáng ngờiÁo nâu túi vải đẹp lạ thường!Nhớ Người những sáng tinh sươngUng dung yên ngựa trên đường suối reoNhớ chân Người bước lên đèoNgười đi, rừng núi trông theo bóng vẽ nào cũng thần tình. Có núi rừng, có đèo cao, có suối reo… làm nền cho bức họa truyền thần. Có những nét chấm phá linh diệu về Ông Cụ mắt sáng ngời, áo nâu túi vải đẹp tươi, phong thái ung dung khi ngồi trên yên ngựa trong tiếng suối reo, khi bước trên đèo cao… Thời gian là những sáng tinh sương. Thần thái của Người là thông minh tài trí, là giản dị, bình dị, là ung dung, thanh cao. Thiên nhân được nhân hóa "Người đi, rừng núi trông theo bóng Người" làm cho tình thương nhớ, lưu luyến và sự kính yêu ngưỡng mộ của nhân dân đối với Bác Hồ thêm đậm đà, sâu sắc. Đây là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất của Tố Hữu viết về vị lãnh tụ kính yêu của dân thơ "Việt Bắc" được khép lại trong tình non nước và lòng biết ơn Bác Hồ kính yêu. Đó là mối tình đời đời bất diệtNgàn năm non nước mai sauĐời đời ơn Bác càng sâu càng bền."Việt Bắc" là sự kết tinh nghệ thuật thơ ca dân gian và thơ ca cổ điển của dân tộc. Cách đối đáp giữa mình với ta theo lối ca dao dân ca được vận dụng sáng tạo. Tình lưu luyến, bồi hồi giữa kẻ ở người về gắn liền với bao kỉ niệm đắng cay, ngọt bùi trong suốt mười lăm năm trời, từ ngày "kháng Nhật thuở còn Việt Minh" đến ngày chiến thắng giòn giã "Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về". Hình ảnh quân dân kháng chiến, hình ảnh lãnh tụ kính yêu, cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, hùng vĩ, đẹp tươi… tất cả đã chung đúc một cách hài hòa, tuyệt đẹp làm nên tính dân tộc và tính hiện đại của bài thơ tuyệt bút này."Việt Bắc" là khúc tình ca cũng là bản anh hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Nó đã nâng cao tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc. Tình ân nghĩa thủy chung là bài học sâu sắc đối với mỗi chúng ta, mãi mãi là hành trang của mỗi chúng ta."Thơ hay phải có dư vị văn chương" như có người đã nói. Trong những năm dài sống trong chế độ bao cấp, thiếu thốn đủ điều, có lúc phải ăn bo bo, nên khi đọc Việt Bắc, nhiều người chưa cảm thấy "dư vị" của sang thế kỉ XXI, đất nước ta đang đổi mới từng ngày từng giờ. Tuy đến nay 2008, Việt Bắc chưa có cảnh tượng "Phố phường như nấm, như măng giữa trời", nhưng ai cũng cảm thấy lạc quan và hi vọng. Dự báo ấy chính là "dư vị văn chương" của bài thơ "Việt Bắc".5. Phân tích bài thơ Việt BắcNăm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hoà bình được lập lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trung ương Đảng, cán bộ, bộ đội rời Việt Bắc trở về Thủ đô Hà Nội. Trong không khí chia tay đầy nhớ thương lưu luyến giữa nhân dân Việt Bắc và những người cán bộ cách mạng, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Với tầm nhìn của một nhà thơ cách mạng, một nhà tư tưởng, Tố Hữu đã phản ánh sâu sắc hiện thực kháng chiến mười lăm năm của Việt Bắc và dự báo những diễn biến tư tưởng trong hoà trích bài thơ “Việt Bắc” miêu tả cuộc chia li đầy thương nhớ lưu luyến giữa Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến và gợi lại những kỉ niệm kháng chiến anh hùng mà đầy tình nghĩa. Tác giả đã chọn thể thơ lục bát và lối hát đối đáp như trong ca dao dân ca và hình tượng hoá Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến là Ta – Mình. Cuộc chia li giữa nhân dân Việt Bắc và những người chiến sĩ cách mạng như là cuộc chia tay của một đôi bạn tình đầy bịn rịn, nhớ nhung, lưu đầu là lời của Việt Bắc. Để cho Việt Bắc – người ở lại – mở lời trước là rất tế nhị, vì trong chia tay thì người ở lại thường không yên lòng đối với người ra đi“Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồngMình về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”Bài thơ “Việt Bắc” có hai giai điệu chính. Câu thơ mở đầu “Mình về mình có nhớ ta” là giai điệu chính thứ nhất. Câu thơ mới đọc thoáng qua tưởng không có gì nhưng sâu sắc lắm. Một trăm cặp tình nhân chia tay cũng đều nói lời này. Tố Hữu mượn màu sắc của tình yêu mà phô diễn tình cảm cách mạng. Đại từ mình và ta đứng ở hai đầu câu thơ, đã thấy xa cách. Từ “nhớ” được điệp lại ba lần đã tạo ra âm hưởng chủ đạo của bài thơ lưu luyến, nhớ thường, ân tình ân nghĩa. Người về lặng đi trước những câu hỏi nặng tình nặng nghĩa của Việt Bắc“Áo chàm đưa buổi phân liCầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”Việt Bắc lại hỏi“Mình đi, có nhớ những ngàyMưa nguồn suối lũ, những mây cùng mùMình về, có nhớ chiến khuMiếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?”Để cho Việt Bắc hỏi là một cách nhà thơ khơi gợi lại những ngày kháng chiến gian khổ. Chỉ vài hình ảnh “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù” là khung cảnh rừng núi hiện lên ảm đạm trong những ngày đầu kháng chiến. Mình và Ta đã từng chịu chung gian khổ “miếng cơm chấm muối”, đã cùng chung lưng đấu cật để chống kẻ thù chung “mối thù nặng vai”.Vẫn còn là lời hỏi của Việt Bắc, nhưng tứ thơ chuyển“Mình về, rừng núi nhớ aiTrám bùi để rụng, măng mai để đi, có nhớ những nhàHắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”Biện pháp tu từ nhân hoá “rừng núi nhớ ai” nói lên tình cảm thắm thiết của Việt Bắc với những người kháng chiến. Mình về thì núi rừng Việt Bắc trống vắng “Trám bùi để rụng, măng mai để già”. Quả trám trám xanh và trám đen và măng mai là hai món ăn thường nhật của bộ đội và cán bộ kháng chiến. Mượn cái thừa để nói cái thiếu, thật hay! Hình thức đối lập giữa cái bên ngoài hắt hiu lau xám và bên trong đậm đà lòng son biểu hiện chân thật cuộc sống lam lũ, nghèo đói của người dân Việt Bắc, nhưng trong lòng thì thuỷ chung son sắt với cách lời Việt Bắc hỏi người về“Mình đi, mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”Giai điệu chính thứ hai của bài thơ xuất hiện “Mình đi, mình có nhớ mình”. Nếu giai điệu một là đạo lí của dân tộc với tư tưởng ân nghĩa thì giai điệu hai là cách mạng. Việt Bắc nhắn nhủ với người về là chẳng những “nhớ ta” mà còn phải “nhớ mình’, nói theo ngôn từ của tình yêu thì chẳng những phải “nhớ em” mà còn phải “nhớ anh” nữa. Cái “anh” mà hồi ở với em. Mình đã sống với Ta mười lăm năm, tình nghĩa biết mấy, anh hùng biết mấy! Mình với Ta viết lên những trang sử oai hùng của dân tộc “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”. Bây giờ xa cách, Mình về thành thị, nhớ đừng thay lòng đổi dạ với Ta, mà cũng đừng thay lòng đổi dạ với chính mình“Mình về thành thị xa xôiNhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?Phố đông, còn nhớ bản làngSáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?”Để cho Việt Bắc ướm hỏi dè chừng như vậy là một cách khéo léo nhà thơ Tố Hữu dự báo những diễn biến tư tưởng trong hoà bình.“Mình đi, mình có nhớ mình”Đó là câu thơ hay nhất của bài thơ “Việt Bắc” mà cũng là một sáng tạo tuyệt vời của Tố Hữu. Đón hết những lời ân tình ân nghĩa của Việt Bắc, bây giờ người về mới mở lời. Lời người về cũng chí tình chí nghĩa“Ta với mình, mình với taLòng ta sau trước mặn mà đinh ninh,Mình đi, mình lại nhớ mìnhNguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…”Hai đại từ ta – mình cứ xoắn xuýt, quấn quýt “Ta với mình, mình với ta” thật là nồng nàn. Ý nghĩa lại không rạch ròi để rồi nhập lại làm một“Mình đi, mình lại nhớ mình”Trả lời cho câu hỏi “Mình về mình có nhớ ta”Diễn ra ngôn ngữ của tình yêu là “Anh đi anh lại nhớ em”. Nỗi nhớ của người đi thật là dào dạt, nghĩa tình của người đi đối với Việt Bắc thật là bất tận “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”. Người đi trả lời như vậy hẳn làm yên lòng người ở lại – Việt vậy là biến tấu của giai điệu một đã hình thành và mở rộng đến vô cùng. Tất nhiên đấy chỉ là một thủ pháp để nhà thơ miêu tả mối quan hệ khăng khít giữa Việt Bắc và cách mạng, miêu tả lại bản anh hùng ca kháng chiến của quân dân Việt xua tan những hoài nghi của người ở lại, người về phải nói những lời thật nồng thắm, phải so sánh với những tình cảm cao quý nhất của con người“Nhớ gì như nhớ người yêuTrăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”Từ “nhớ” được điệp lại trùng trùng và mỗi từ lại gợi lên không biết bao nhiêu kỉ niệm thân thương giữa Ta với Mình. Những chi tiết nhỏ nhặt đã được hồi tưởng mà cái nhỏ trong tình yêu chính là cái lớn.“Thương nhau, chia củ sắn lùiBát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”Con người Việt Bắc trong lòng người về mới đáng yêu đáng quý làm sao“Nhớ người mẹ nắng cháy lưngĐịu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.”Một tiếng mõ trâu giữa rừng chiều, một tiếng chày đêm ngoài suối âm vang mãi trong lòng người ra về“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiềuChày đêm nện cối đều đều suối xa…”Nói gọn lại là người về nhớ thiên nhiên Việt Bắc tươi đẹp, thơ mộng hữu tình1; nhớ con người Việt Bắc giản dị, tình nghĩa, thủy giọng điệu anh hung ca. Cuộc kháng chiến anh hùng của ta và mình được tái hiện trong hòai niệm của người về“Nhớ khi giặc đến giặc lùngRừng cây núi đá ta cùng đánh TâyNúi giăng thành lũy sắt dàyRừng che bộ đội, rừng vây quân thù.”Thiên nhiên Việt Bắc như có linh hồn là nhờ tác giả sử dụng phép nhân hóa. Núi rừng Việt Bắc tươi đẹp đã trở thành lũy sắt bảo vệ và che chở cho bộ đội “vây”, “đánh” quân thù. Mỗi một tên núi, tên sông, tên phố, tên bản là một chiến công lừng lẫy của quân dân Việt Bắc. Rồi những đêm hành quân, những đoàn dân công, những đoàn xe vận tải tấp nập sôi động“Những đường Việt Bắc của taĐêm đêm rầm rập như là đất rungQuân đi điệp điệp trùng trùngÁnh sao đầu súng bạn cùng mũ nanDân công đỏ đuốc từng đoànBước chân nát đá, muôn tàn lửa đêm thăm thẳm sương dàyĐèn pha bật sáng như ngày mai lên.”Tác giả lại chuyển sang giọng điệu thơ trang trọng, thiêng liêng để diễn tả nỗi nhớ của người về đối với Trung ương Chính phủ – Cụ Hồ. Và hình ảnh của Việt Bắc trong trí nhớ của người về là quê hương cách mạng, là căn cứ địa kháng chiến, là niềm tin là hi vọng của cả dân về cũng không quên trả lời câu hỏi gay cấn của Việt Bắc“Mình về mình lại nhớ taMái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào” 2Trả lời cho câu hỏi “Mình đi mình có nhớ mình”Nghĩa là người về muốn nhắn nhủ với Việt Bắc là dù xa cách dù về thành thị xa xôi thì người các bộ kháng chiến năm xưa vẫn giữ gìn và phát huy phẩm chất tốt đẹp của người cán bộ cách vậy là với biến tấu của giai điệu hai, tác giả đã khép lại phần một của bài thơ”Việt Bắc”. Và chủ đề chung thủy – chung thủy với cách mạng của bài thơ “Việt Bắc” đã đạt đến độ sâu sắc ngay trong phần một này.“Việt Bắc” là một kiệt tác của Tố Hữu mà cũng là kiệt tác của thơ ca cách mạng, thơ ca kháng chiến. Bài thơ thể hiện tài hoa nhiều mặt của nhà thơ Tố Hữu. Thể thơ lục bát được tác giả phô diễn những tình cảm, tư tưởng mới mà vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo. Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân đặc biệt là hai đại từ Ta – Mình. Tiếng nói yêu thương – nét nổi bật trong phong cách thơ Tố Hữu – không có bài nào thấm thía hơn “Việt Bắc”. Bài thơ còn thể hiện tư tưởng mới mẻ với những dự báo sáng suốt được biểu hiện bằng hình ảnh phong phú và tấu lên băng âm nhạc làm say mê lòng Cảm nhận bài thơ Việt BắcTố Hữu là người đại diện xuất sắc của thơ ca cách mạng Việt Nam và cũng là nhà thơ có phong cách riêng trong sáng tác. Tố Hữu có giọng thơ trữ tình đằm thắm, các sáng tác của ông luôn gắn liền với các chặng đường quan trọng của lịch sử dân tộc. Vì vậy, thơ Tố Hữu vừa đậm đà tính dân tộc nhưng không tách rời tính hiện thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là thành tựu xuất sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ ra đời nhân một sự kiện lịch sử tháng 10 năm 1954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi trở về miền xuôi. Từ điểm xuất phát ấy, bài thơ ngược về quá khứ để tưởng nhớ một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, để nói lên nghĩa tình gắn bó thắm thiết với Việt Bắc, với Đảng và Bác Hồ, với đất nước và nhân dân - tất cả là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn để dân tộc ta vững vàng bước tiếp trên con đường cách mạng. Nội dung ấy được thể hiện bằng hình thức đậm tính dân tộc. Bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ Tố cảnh sáng tác tạo nên một sắc thái tâm trạng đặc biệt, đầy xúc động bâng khuâng Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay… Đó là cuộc chia tay của những người từng sống gắn bó suốt mười lăm năm ấy, có biết bao kỉ niệm ân tình, từng sẻ chia mọi cay đắng ngọt bùi, nay cùng nhau gợi lại những hồi ức đẹp đẽ, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung và hướng về tương lai tươi sáng. Chuyện ân tình cách mạng đã được Tố Hữu khéo léo thể hiện như tâm trạng của tình yêu lứa biến tâm trạng như trong tình yêu lứa đôi được tổ chức theo lối đối đáp quen thuộc của ca dao, dân ca, bên hỏi, bên đáp, người bày tỏ tâm sự, người hô ứng, đồng vọng. Hỏi và đáp đều mở ra bao nhiêu kỉ niệm về một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, mở ra bao nhiêu nỗi niềm nhớ thương. Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là độc thoại, là sự biểu hiện tâm tư, tình cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng hồi tưởng của chủ thể trữ tình, cảnh và người Việt Bắc hiện lên thật đẹp. Nỗi nhớ thiết tha của người cán bộ sắp về xuôi đã khắc sâu thiên nhiên núi rừng Việt Bắc với vẻ đẹp vừa hiện thực, vừa thơ mộng, thi vị, gợi rõ những nét riêng biệt, độc đáo, khác hẳn những miền quê khác của đất nước. Chỉ những người đã từng sổng Việt Bắc, coi Việt Bắc cũng là quê hương thân thiết của mình mới có nỗi nhớ thật da diết, những cảm nhận thật sâu sắc, thấm thía về ánh nắng ban chiều, ánh trăng buổi tối, những bản làng mờ trong sương sớm, những bếp lửa hồng trong đêm khuya, những núi rừng sông suối mang những cái tên thân thuộc - tất cả là khoảng thời gian và không gian lóng lánh kỷ niệmNhớ gì như nhớ người yêu...Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ về Việt Bắc là sự hoà quyện thắm thiết giữa cảnh với người, là ấn tượng không thể phai mờ về những người dân Việt Bắc cần cù trong lao động, thuỷ chung trong nghĩa tìnhTa về, mình có nhớ ta...Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chungCó thể thấy thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với bao vẻ đẹp thật đa dạng, phong phú, sinh động, thay đổi theo từng thời tiết, từng bó với từng khung cảnh ấy là hình ảnh những con người bình thường người đi làm nương rẫy, người đan nón, người hái măng,… Bằng những việc làm tưởng chừng nhỏ bé của mình, họ đã góp phần tạo nên sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng chiến. Chính nghĩa tình của nhân dân với cán bộ, bộ đội, sự đồng cảm và san sẻ, cùng chung mọi gian khổ và niềm vui, cùng gánh vác mọi nhiệm vụ nặng nề, khó khăn,… tất cả càng làm Việt Bắc thêm ngời sáng trong tâm trí của nhà thơ. Việt Bắc - đó là hình ảnh những mái nhà “hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”, là hình ảnh người mẹ trong cái “nắng cháy lưng - Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”, là những tháng ngày đồng cam cộng khổThương nhau, chia củ sắn lùiBát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng,…Có thể nói, âm hưởng trữ tình vang vọng suốt bài thơ đã tạo nên khúc ca ngọt ngào, đằm thắm của tình đồng chí, nghĩa đồng bào, của tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu dòng hồi tưởng của chủ thể trữ tình, bài thơ dẫn người đọc vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu với không gian núi rừng rộng lớn, những hoạt động tấp nập, những hình ảnh hào hùng, những âm thanh sôi nổi, dồn dập, náo nức. Cách mạng và kháng chiến đã xua tan vẻ âm u, hiu hắt của núi rừng, đồng thời khơi dậy sức sống mạnh mẽ của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Bài thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng ca, mang dáng vẻ một sử thi hiện đại, bởi vì chỉ cần phác họa khung cảnh hùng tráng ở Việt Bắc, Tố Hữu đã cho thấy khí thế vô cùng mạnh mẽ của cả một dân tộc đứng lên chiến đấu vì Tổ quốc độc lập, tự doNhững đường Việt Bắc của ta...Đèn pha bật sáng như ngày mai tộc ấy đã vượt qua bao thiếu thốn, gian khổ, hi sinh để lập nên những kì tích, những chiến công gắn với những địa danh Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên,… Nhưng Tố Hữu không chỉ miêu tả khí thế hào hùng của cuộc kháng chiến mà còn đi sâu lí giải những cội nguồn sức mạnh đã dẫn tới chiến thắng. Đó là sức mạnh của lòng căm thù "Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai", sức mạnh của tình nghĩa thuỷ chung "Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi", sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, của sự hoà quyện gắn bó giữa con người với thiên nhiên - tất cả tạo thành hình ảnh đất nước đứng lênNhớ khi giặc đến giặc lùng...Đất trời ta cả chiến khu một biệt, với những lời thơ trang trọng mà thiết tha, Tố Hữu đã nhấn mạnh, khẳng định Việt Bắc là quê hương của Cách mạng, là căn cứ địa vững chắc, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ bao tình cảm, suy nghĩ, niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước. Trong những năm tháng đen tối trước Cách mạng, hình ảnh Việt Bắc hiện dần từ mờ xa mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù đến xác định như một chiến khu kiên cường, nơi nuôi dưỡng bao sức mạnh đấu tranh, nơi khai sinh những địa danh sẽ mãi mãi đi vào lịch sử dân tộcMình về, còn nhớ núi non...Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đaTrong những ngày kháng chiến gian lao, Việt Bắc là nơi có Cụ Hồ sáng soi, có Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công. Để khẳng định niềm tin yêu của cả nước với Việt Bắc, Tố Hữu lại dùng những vần thơ rất mộc mạc, giản dị mà thắm thiết nghĩa tình Ở đâu đau đớn giống nòi...Quê hương cách mạng dựng nên cộng thuật biểu hiện của bài thơ đậm đà tính dân tộc. Điểm đáng chú ý trước hết là Tố Hữu đã phát huy được nhiều thế mạnh của thể lục bát truyền thống. Cấu tứ của bài thơ là cấu tứ ca dao với hai nhân vật trữ tình là ta và mình, người ra đi và người ở lại hát đối đáp với nhau. Trong cuộc hát đối đáp chia tay lịch sử này, người ở lại lên tiếng trước, nhớ về một thời xa hơn, thời đấu tranh gian khổ trước Cách mạng, sau đó người ra đi nối tiếp nhớ lại kỉ niệm thời chín năm kháng thơ rất chú ý sử dụng kiểu tiểu đối của ca dao, chẳng những có tác dụng nhấn mạnh ý mà còn tạo ra nhịp thuyên chuyển, cân xứng, hài hoà, làm cho lời thơ dễ nhớ, dễ thuộc, thấm sâu vào tâm tưMình về rừng núi nhớ aiTrám bùi để rụng măng mai để già;…Điều quân chiến dịch thu đôngNông thôn phát động giao thông mở đườngVề ngôn ngữ thơ, Tố Hữu chú ý sử dụng lời ăn tiếng nói của nhân dân rất giản dị mộc mạc nhưng cũng rất sinh động để tái hiện lại một thời cách mạng và kháng chiến đầy gian khổ mà dạt dào tình nghĩa. Đó là thứ ngôn ngữ rất giàu hình ảnh cụ thểNghìn đêm thăm thẳm sương dày;Nắng trưa rực rỡ sao tràng;…và cũng là thứ ngôn ngữ rất giàu nhạc điệuChày đêm nện cối đều đều suối xa;Đêm đêm rầm rập như là đất rung;…Đặc biệt, thơ Tố Hữu sử dụng rất nhuần nhuyễn phép trùng điệp của ngôn ngữ dân gianMình về, mình có nhớ ta;Mình về, có nhớ chiến khu;Nhớ sao lớp học i tờ;Nhớ sao ngày tháng cơ quan;Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều,…Tất cả tạo ra một giọng điệu trữ tình nghe thiết tha, êm ái, ngọt ngào như âm hưởng lời ru, đưa ta vào thế giới của kỉ niệm và tình nghĩa thuỷ thơ là khúc ca ân nghĩa, là hồi tưởng đầy xúc động và ân tình của Tố Hữu về chặng đường mười lăm năm đã qua của đất nước từ khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 đến hoà bình lập lại năm 1954, từ đó mà hướng về tương lai tươi sáng, nhắc nhớ tâm nguyện thuỷ chung. Viết về nghĩa tình dân tộc và hướng về đồng bào mình, Tố Hữu đã phát huy được hình thức nghệ thuật mang tính dân tộc, trong đó nổi bật là cách sử dụng thể thơ lục bát và ngôn ngữ thơ đậm sắc thái dân gian. Có thể coi Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến mà cội nguồn sâu xa của nó là tình yêu quê hương đất nước, là niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, là truyền thống ân nghĩa, đạo lí thuỷ chung của dân tộc Việt Phân tích Việt Bắc đoạn 1Nhắc đến Tố Hữu, người ta sẽ nhớ ngay đến hình ảnh của một nhà thơ luôn đi đầu trong phong trào nghệ thuật vì nền cách mạng nước nhà. Con đường thơ ca của Tố Hữu luôn gắn liền với những hình ảnh, sự kiện nổi bật của dân tộc. Bằng giọng thơ giàu tình cảm, bút pháp tài tình kết hợp giữa chính trị và nghệ thuật biểu hiện, ông đã sáng tác bài thơ Việt Bắc được xem là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Đặc biệt, chỉ qua khổ thơ thứ nhất, ông đã mang tới cho người đọc đến với vùng đất Việt Bắc đầy nắng gió, khó khăn những thấm đẫm tình Bắc được sáng tác vào tháng 10/1954, đây là giai đoạn chuyển giao khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, các cán bộ chiến sỹ rời chiến khu Việt Bắc quay trở lại thủ đô Hà Nội. Cuộc chiến tranh kết thúc với bao niềm vui hân hoan vì nền độc lập hòa bình, thế nhưng đồng nghĩa với việc chia ly giữa cán bộ và đồng bào Việt Bắc. Nơi ấy, nhân dân cán bộ đã trải qua cùng nhau bao khó khăn, kỉ niệm, chia sẻ ngọt bùi cùng nhau. Bài thơ Việt Bắc ra đời để thể hiện biết bao tâm tình của người đi kẻ đầu đoạn trích, tác giả đã thay lời muốn nói của những người ở lại để thể hiện cho hết cung bậc nhớ thương, tình cảm“Mình về mình có nhớ taMười lăm năm ấy thiết tha mặn nồngMình về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?Mình - ta thường được dùng để thể hiện mối quan hệ gần gũi như vợ chồng, lứa đôi. Thế nhưng tác giả đã dùng cặp từ ấy cho đồng bài Việt Bắc với những người lính cán bộ. Chẳng phải vợ chồng nhưng tình nghĩa đôi bên cũng keo sơn, bền chặt tựa như vậy. Những câu hỏi dồn dập, nào là có nhớ ta, nhớ cây nhớ núi nhớ sông nhớ nguồn không. Điệp từ “nhớ” được nhắc lại nhiều lần trong câu hỏi tu từ càng xoáy sâu vào trong lòng người đọc. “Mười lăm năm” là chi tiết thực chỉ độ dài từ những năm 1940 cho đến thời gian ấy, hơn một thập kỷ chúng ta đã cùng nhau ăn, cùng nhau cười, cùng nhau chiến đấu. So với những cuộc kháng chiến khác, mười lăm năm ấy chẳng phải là dài. Thế nhưng cái quan trọng ở đây, khoảng thời gian ấy đã tích tụ, bồi đắp biết bao tình cảm, có thể đong đầy bằng cả đời người. Câu hỏi chất chứa tình cảm lưu luyến, bao lời dặn dò của người ở lại cho người ra đi. Trở về với phố hội phồn hoa, mong người đừng quên “cây núi sông nguồn chốn đây”. Những cảnh vật tuy vô tri vô giác, thế nhưng đã cùng “mình” với “ta” trong suốt bao năm qua lúc vui kể cả lúc buồn. Cây và sông là biểu tượng của không gian miền xuôi, với vùng cao đầy núi và nguồn. Sự chia ly có thể bị ngăn trở bởi khoảng cách thế nhưng “ta” vẫn luôn hi vọng “mình” sẽ chẳng bao giờ quên những chốn kỉ niệm ấy. Tố Hữu đặc biệt sử dụng những từ “thiết tha”, “mặn nồng” càng làm tăng giá trị của những thứ tình cảm ấy. Phải thật trân trọng, đáng quý xiết bao mới khiến con người ta không khỏi nuối tiếc nếu phải đánh mất như đối với người ở lại, những tình cảm ấy chất chứa trong hàng ngàn lời nói thì người ra đi chỉ biết dùng hành động để thể hiện nỗi lòng. Tình cảm ấy, họ đã quá hiểu nhân dân Việt Bắc. Vì sự nghiệp đất nước vẫn đang đợi chờ các anh nên buộc lòng các anh phải ra đi, tuy chẳng nỡ nhưng cũng đành xa cách“Tiếng ai tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”Những cặp từ láy “bâng khuâng”, “bồn chồn” diễn tả trạng thái tâm lý nhớ thương, luyến tiếc khiến lòng chẳng thể yên. Như Tú Xương đã viết“Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”...Tiếng “ai” ấy lại chất chứa biết bao yêu thương, chẳng thể chỉ cụ thể một người, bởi tình cảm ấy là dành cho cả một đồng bào Việt Bắc. Tố Hữu đã khai thác tiếng “ai” ấy một cách xuất sắc, khi để lại âm vang trong lòng người về. Nó khiến cho tâm trạng con người càng trở nên nôn nao, những dòng cảm xúc cứ ào về không thôi. Nhưng những tâm trạng nhớ thương ấy chỉ biết kìm nén chặt trong lòng, chẳng thể nào dùng lời lẽ bày tỏ, hay thét lên cho nguôi ngoai những nỗi trạng bâng khuâng bồn chồn ấy còn được thể hiện hết sức tinh tế qua nhịp điệu hai câu tiếp theo“Áo chàm đưa buổi phân liCầm tay nhau biết nói gì hôm nay”Cặp thơ lục bát được tác giả góp thêm một chút nhịp điệu, như một đảo phách trong âm nhạc. Màu “áo chàm” đặc trưng của những con người chân chất miền núi Tây Bắc. Hình ảnh thấy thật đơn sơ, mộc mạc của chốn quê nghèo, nghèo vật chất những luôn giàu tình cảm. Tấm áo ấy đã chất chứa biết bao mồ hôi, khó khăn vất vả, một nắng hai sương để chiến đấu, nuôi dưỡng các anh lính cụ Hồ để các anh an tâm đánh giặc. Chẳng phải áo bào, áo gấm để tiễn đưa, cảm ơn công lao của các anh, chỉ là bóng dáng của những con người lao động nhưng sao vẫn khiến cho ta không khỏi cảm kích, biết ơn. Tình cảm bịn rịn ấy còn được thể hiện qua hình ảnh “cầm tay”. Đôi bàn tay của những con người cầm súng ấm ấp, nâng niu đôi tay của những người lao động. Những đôi tay vất vả, sờn lên vì những khó khăn khác nhau, nhưng giờ phút ấy, đôi ta đều chung một nỗi tâm tình. Hình ảnh giàu tính gợi hình, gợi cảm xúc, chẳng cần phải giãi bày nhiều vì có quá nhiều điều muốn nói, nhưng lại chẳng biết bắt đầu từ đâu. Nỗi lòng ấy, xin người để “ta” chôn chặt trong tim nhưng tình cảm sẽ sống mãi trong khoảnh khắc “cầm tay” thơ mở đầu của bài Việt Bắc đã vẽ nên những cung bậc cảm xúc hết sức đa dạng, sâu lắng của người đi kẻ ở. Nhịp thơ nhẹ nhàng, du dương để diễn tả một cách trọn vẹn, khéo léo những tình cảm chân thành ấy đã cho thấy tài năng nổi bật của Tố Hữu trong số những thi sỹ tài hoa của Việt Phân tích Việt Bắc đoạn 3Xuân Diệu từng tâm sự khi đọc thơ Tố Hữu “Thơ của chàng thanh niên Tố Hữu khi ấy từ trái tim vọt ra cũng như thơ của chúng tôi, cũng lãng mạn như thể chúng tôi, nhưng là thứ lãng mạn khác, có nhiều máu huyết hơn; thơ chúng tôi chỉ đập cho mở cửa trời, nhưng thơ Tố Hữu thì mới có chìa khóa Cách mạng, giải phóng dân tộc, giải phóng cho người lao khổ”. Cuộc đời Tố Hữu là cuộc đời dân tộc, lẽ sống Tố Hữu là lẽ sống của đồng bào. Câu thơ Tố Hữu cũng thế, câu thơ của những cuộc kháng chiến“Mình đi, có nhớ những ngàyMưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?Mình về, có nhớ chiến khuMiếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?Mình về, rừng núi nhớ aiTrám bùi để rụng, măng mai để giàMình đi, có nhớ những nhàHắt hiu lau xám, đậm đà lòng sonMình về, còn nhớ núi nonNhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt MinhMình đi, mình có nhớ mìnhTân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”Tháng 7 năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp quay trở lại nước ta đã kết thúc thắng lợi. Hòa bình được lặp lại, nửa đất nước được giải phóng. Tháng 10 năm 1954, Hà Nội được giải phóng, trung ương Đảng và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Lịch sử dân tộc bước sang một trang mới. Ở thời khắc này, người ta có nhu cầu nhìn lại chặng đường vừa qua, đồng thời hướng về con đường tương lai để bước tiếp. Bài thơ “Việt Bắc” ra đời để đáp ứng nhu cầu ấy của xã hội, là tiếng lòng của đồng bào mọi người. “Việt Bắc” là bản trường ca đầy ân tình – tình quê hương, tình đất nước, nghĩa tình giữa con người. Vì thế bài thơ là một bản tổng kết lịch sử bằng tâm tình. Bởi là một chặng đường dài nên từ những câu thơ này đến dòng thơ sau đều có sự phát triển và vận động, mang ý nghĩa riêng của câu thơ đầu là khúc dạo đầu của bản trường ca, tái hiện lại những ngày tháng gian khổ khó khăn mà thấm đượm ân tình, ân nghĩa“Mình đi, có nhớ những ngàyMưa nguồn suối lũ, những mây cùng mùMình về, có nhớ chiến khuMiếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”Đoạn thơ là một loạt những câu hỏi được điệp lại “Mình đi, có nhớ…”, “mình về, có nhớ…” như lời nhắc nhở nhẹ nhàng, ân tình. Cách xưng hô “mình – ta” cùng với kết cấu đối đáp quen thuộc gợi nhớ về lối đối đáp quen thuộc trong những câu hát giao duyên, những điệu hát huê tình của chàng trai và cô gái, giữa mận và đào, của mai và trúc. Mượn tình đôi lứa cá nhân để biểu đạt một tình cảm lớn hơn tình yêu đồng bào khiến câu thơ từ chính trị khô khan trở nên rất đỗi trữ tình. Trong những câu thơ sau, tác giả đã vận dụng sáng tạo cách ăn nói, lối diễn đạt dân gian “mưa nguồn suối lũ”, “mây cùng mù” để tái hiện hình ảnh của thiên nhiên nơi rừng núi. Nếu thiên nhiên miền Tây Bắc hiện lên thơ mộng, lãng mạn trong cái nhìn của Quang Dũng “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” thì thiên nhiên đối với những con người nơi đầu nguồn chớp bể thực sự không dễ dàng “mưa nguồn suối lũ” tưởng như có thể đánh bại và làm con người biến mất bất cứ lúc nào. Sau này, hình ảnh mưa ấy cũng vào trong trang thơ của Phạm Tiến Duật, trên con đường tiến tới lí tưởng “Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời”. Hơn nữa, lại thêm “những mây cùng mù”- trên mây, dưới mù gợi lên cái gì hoang vu, u lạnh của một vùng thâm sơn cùng cốc nào đó. Biện pháp đối lập “Miếng cơm chấm muối” – “mối thù nặng vai” không chỉ nói lên những gian khổ khó khăn mà con người ở đây phải gánh chịu mà qua đó còn khẳng định lòng quyết tâm chiến đấu, chiến thắng của con người. Điều kiện càng khó khăn, gian khổ càng nhắc nhở con người về mối thù không còn vô hình mà đã hữu hình, có sức nặng và cảm nhận nối mạch cảm xúc ấy nhưng những câu thơ lại chở chút luyến lưu, xao xuyến và cả những băn khoăn“Mình về, rừng núi nhớ aiTrám bùi để rụng, măng mai để giàMình đi, có nhớ những nhàHắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”Một loạt những cụm từ “Trám bùi để rụng”, “măng mai để già”, “hắt hiu lau xám” như những nỗi băn khoăn về sự thay đổi, phai nhạt của lòng người theo thời gian để rồi mọi thứ cũng héo úa, tàn lụi dần. Nhưng kết thúc lại là hình ảnh tươi rói, ấm áp bao nhiêu “đậm đà lòng son” nổi lên giữa sự mờ nhạt xung quanh. Câu thơ kết lại chắc nịch về mối tình ân nghĩa, thủy chung không thể đổi cùng là lời trao gửi của người ở lại để nhắc nhớ về hành trình kháng chiến của toàn dân tộc với những chặng đường đáng nhớ“Mình về, còn nhớ núi nonNhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt MinhMình đi, mình có nhớ mìnhTân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”Trong câu hỏi cuối có đến ba từ “mình”. “Mình” thứ nhất và thứ hai để chỉ người ra đi. Vậy còn từ “Mình” thứ ba? Vẫn là người ra đi? Hay đó là người ở lại? Không thể phân biệt được! Có lẽ là cả hai. Mình và ta giờ đã không còn phân biệt được nữa rồi. Mình là ta, ta và mình hòa quyện trong nhau, cùng sống, cùng lí tưởng, cùng chiến đấu để cùng tận hưởng niềm vui chiến thắng. Những tình cảm đó, sẽ là “ta” đi theo mình đến mọi chặng đường, dù khi ấy “mình” có đi đâu chăng thơ gợi nhắc về những tháng năm kháng chiến, những ân tình cách mạng mà không hề khô khan, giáo điều mà rất nhẹ nhàng, tự nhiên đi vào lòng người đọc bởi thể thơ lục bát quen thuộc, kết cấu của những câu hát yêu thương tình nghĩa với giọng điệu thiết tha, da diết. Hình ảnh thơ giản dị, quen thuộc mà có sức gợi đến bất ngờ. Chính những năm tháng ấy, những con người ấy là điểm tựa, là động lực để làm nên những chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Nếu nói văn học chính là “tấm gương lớn di chuyển trên đường cái”, là “phong vũ biểu của thời đại” thì “Việt Bắc” của Tố Hữu chính là tác phẩm như thế. Nó đã làm trọn trách nhiệm của mình, của văn học phục vụ cách mạng, cổ vũ chiến mượn lời của nhà thơ Chế Lan Viên thay cho lời kết “Thơ Tố Hữu là thơ một con người biết trân trọng lấy đời mình, muốn làm cho đời mình trở nên hữu ích. Vậy thì ai kia còn phung phí đời mình, làm gì cũng được, sống sao cũng xong, trong khi đọc thơ này hãy bắt đầu thử dừng lại mà biết quý lấy đời mình, mà đem xây dựng nó.”9. Phân tích bức tranh tứ bình Việt BắcNhắc đến Việt Bắc là nhắc đến cội nguồn của cách mạng, nhắc đến mảnh đất trung du nghèo khó mà nặng nghĩa nặng tình - nơi đã in sâu bao kỷ niệm của một thời kỳ cách mạng gian khổ nhưng hào hùng sôi nổi khiến khi chia xa, lòng ta sao khỏi xuyến xao bồi cứ thế sợi nhớ, sợi thương cứ thế mà đan cài xoắn xuýt như tiếng gọi "Ta - mình" của đôi lứa yêu nhau. Đúng như lời thơ Chế Lan Viên từng viết "Khi ta ở đất chỉ là nơi ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn". Vâng! Việt Bắc đã hóa tâm hồn dào dạt nghĩa yêu thương trong thơ Tố Hữu với những lời thơ như tiếng nhạc ngân nga, với cảnh với người ăm ắp những kỉ niệm ân tình có bao giờ quên được."Ta về mình có nhớ taTa về, ta nhớ những hoa cùng ngườiRừng xanh hoa chuối đỏ tươiĐèo cao nắng ánh dao gài thắt lưngNgày xuân mơ nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng sợi giangVe kêu rừng phách đổ vàngNhớ cô em gái hái măng một mìnhRừng thu trăng rọi hòa bìnhNhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, thơ ông diễn tả những tình cảm cách mạng thật nhẹ nhàng mà cũng thật đậm sâu. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ được viết vào tháng 10/1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ và cán bộ kháng chiến từ giã "Thủ đô gió ngàn" về với "Thủ đô Hoa vàng nắng Ba Đình". Cả bài thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương tuôn chảy về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc rất gian khổ nhưng vui tươi hào hùng. Nhưng có lẽ để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong bài ca Việt Bắc có lẽ là đoạn thơ về bức tranh tứ bình với bốn mùa xuân - hạ - thu - đầu đoạn thơ là hai câu thơ giới thiệu nội dung bao quát cảm xúc chung của đoạn thơ"Ta về mình có nhớ taTa về ta nhớ những hoa cùng người"Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ "mình có nhớ ta", câu thơ thứ hai là tự trả lời, điệp từ "ta" lặp lại bốn lần cùng với âm "a" là âm mở khiến câu thơ mang âm hưởng ngân xa, tha thiết nồng nàn. Với Tố Hữu, người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ "bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng", mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của Hoa cùng Người. Ở đây, hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc. Còn con người là con người Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo khổ nhưng đậm đà lòng son. Hoa và Người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này. Chính điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc cho đoạn thơ. Trong bốn cặp lục bát còn lại câu sáu dành cho nhớ hoa, nhớ cảnh, câu tám dành cho nhớ người. Cảnh và Người trong mỗi câu lại có những sắc thái đặc điểm riêng thật hấp đến mùa đông ta thường nhớ đến cái lạnh thấu xương da, cái ảm đạm của những ngày mưa phùn gió bấc, cái buồn bã của khí trời u uất. Nhưng đến với Việt Bắc trong thơ Tố Hữu thì thật lạ. Mùa đông bỗng ấm áp lạ thường"Rừng xanh hoa chuối đỏ tươiĐèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng"Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới, bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái màu "đỏ tươi" - gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Câu thơ làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi"Thạch lựu hiên còn phun thức đỏHồng liên trì đã tịn mùi hương"Từ liên tưởng ấy ta thấy, mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè chứ không lạnh lẽo hoang sơ bởi màu đỏ của hoa chuối cũng như đang phun trào từ giữa màu xanh của núi hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy sản xuất ra nhiều lúa khoai cung cấp cho kháng chiến "Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng" . Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Ở đây câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất - "đèo cao". Con người đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do "Núi rừng đây là của chúng ta/ Trời xanh đây là của chúng ta". Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt qua, xuân lại tới. Nhắc đến mùa xuân ta liên tưởng ngay đến sức sống mới của cỏ cây, hoa lá, của trăm loài đang cựa mình thức dậy sau mùa đông dài. Mùa xuân Việt bắc cũng vậy"Ngày xuân mơ nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng sợi giang"Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng "Ngày xuân mơ nở trắng rừng". "Trắng rừng" được viết theo phép đảo ngữ và từ "trắng" được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Động từ "nở" làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc cũng đón bác Hồ trong màu sắc hoa mơ"Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốtTrắng rừng biên giới nở hoa mơBác về im lặng con chim hótThánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ"Mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động "chuốt từng sợi giang". Con người đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày. Từ "chuốt" và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt hè đến trong âm thanh rộn rã của tiếng ve, bức tranh Việt Bắc lại sống động hơn bao giờ hết"Ve kêu rừng phách đổ vàngNhớ cô em gái hái măng một mình"Thời điểm ve kêu cũng là thời điểm rừng phách đổ vàng. Động từ "đổ" là động từ mạnh, diễn tả sự vàng lên đồng loạt của hoa phách đầu hè. Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng vàng ra. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài niệm, nên lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh. Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa, mà còn có tài trong việc miêu tả sự vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là một biểu hiện đặc sắc của tính dân lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến "Nhớ cô em gái hái măng một mình". Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo lung linh dịu mát"Rừng thu trăng rọi hòa bìnhNhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Ta cũng từng biết đến mùa thu đầy ánh trăng trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu"Trăng vào cửa sổ đòi thơViệc quân đang bận xin chờ hôm sauChuông lầu chợt tỉnh giấc thuẤy tin thắng trận liên khu báo về"Ở đây không có tiếng chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát "ân tình thủy chung" gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau, làm cho bức tranh trở nên gần gũi thân quen, sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về Phân tích 8 câu đầu Việt BắcCó thể nói, nhà thơ Tố Hữu là một trong những nhà thơ trữ tình chính trị tiêu biểu cho dòng thơ ca cách mạng Việt Nam. Trong thơ ông, chứa đựng những tình cảm lớn lao và lẽ sống lý tưởng của những con người Cách mạng. Đặc biệt bài “Việt Bắc” là một trong những tác phẩm ghi dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả mọi thế hệ người Việt Nam. Phân tích 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc, các bạn sẽ cảm nhận được tình cảm sâu đậm tình quân dân trong những năm kháng chiến chống Pháp. Bài thơ ra đời khi các cán bộ chiến sĩ tạm biệt bà con chiến khu Việt Bắc để về xuôi sau 15 năm gắn bó. Đoạn thơ đầu, tác giả đã thể hiện một cách sâu sắc và tinh tế cảm xúc của cả người ở lẫn người đi trong những giờ phút phân li “Mình về mình có nhớ taMười lăm năm ấy thiết tha mặn về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?Tiếng ai tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước điÁo chàm đưa buổi phân liCầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”Thân bài chi tiết phân tích 8 câu thơ đầu bài Việt BắcLuận điểm 1 nỗi nhớ của người ở lạiKhi phân tích 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc, các độc giả vô cùng ấn tượng với cách xưng hô thú vị của người đi và kẻ ở mà tác giả nói trong bài. Đó là “mình” và “ta”. Đặc biệt tần suất xuất hiện của hai từ này được lặp lại rất nhiều ngay trong 4 câu thơ đầu“Mình về mình có nhớ taMười lăm năm ấy thiết tha mặn về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”Mở đầu đoạn thơ là một câu hỏi tu từ. Câu hỏi không phải để hỏi cho ra đáp án mà chỉ là câu hỏi không cần lời đáp nhưng cả hai bên đều ngầm hiểu ý nghĩa cũng như câu trả lời. “Mình về mình có nhớ ta”- câu hỏi nghe tưởng là bâng quơ nhưng thực ra lại ẩn chứa nhiều cảm xúc xốn xang của người ở lại. Tiếp đến, người ở lại mà ở đây chính là đồng bào Việt Bắc đã khơi gợi lại kỷ niệm một giai đoạn 15 năm với biết bao ân tình “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. 15 năm không phải cả đời người nhưng nó đã gần như đưa con người ta đi qua một quãng đời đáng nhớ và không hề ngắn. Đặc biệt thời gian ấy lại rơi vào hoàn cảnh chiến tranh, trong sự sống còn, trước sự vào sinh ra tử. Bởi thế tình người càng trân quý biết bao. Không chỉ gợi lại thời gian bên nhau đằng đẵng với bao mặn nồng mà người ở lại còn nhắc tới cho người đi hình ảnh không gian với rừng cây, núi đồi. Nơi mà cả hai đã có những tháng ngày không thể nào quên “Mình về mình có nhớ không/ Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”. Tiếp tục lại là một câu hỏi tu từ không lời đáp nhưng chan chứa bao ân tình, khiến người đọc cảm thấy cả tiếng nức nở, nỗi thổn thức nhớ nhung của người ở lại. Đại từ xưng hô mình- ta thường bắt gặp trong những câu ca dao được tác giả vận dụng vào đây thật phù hợp. Giúp người đọc cảm nhận sâu sắc sự giản dị, gần gũi gắn bó tình cảm của quân và dân thời bấy giờ. Điệp từ “nhớ” càng thể hiện rõ rệt nỗi nhớ da diết, sâu nặng của đồng bào Việt Bắc dành cho chiến sĩ Cách mạng. Đó là thứ tình cảm thiêng liêng, không chỉ con người mà cả thiên nhiên, đất trời Việt Bắc cũng nhuốm màu thương nhớ, ân điểm 2 tiếng lòng của người điNếu 4 câu đầu là tâm tư tình cảm của người đồng bào miền ngược thì 4 câu thơ sau lại chính là tiếng lòng của các chiến sĩ miền xuôi.“Tiếng ai tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước điÁo chàm đưa buổi phân liCầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”Lúc này không còn phân biệt rõ “ta” và “mình” nhưng người đọc đều hiểu rõ đó chính là tiếng lòng của các chiến sĩ. Độc giả vẫn dễ dàng tưởng tượng cảnh cia tay bịn rịn, đầy nước mắt ất. Người chiến sĩ chuẩn bị quay bước đi nhưng bỗng nghe văng vẳng bên tai “tiếng ai tha thiết bên cồn” để rồi lại cảm thấy “bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”. Tác giả sử dụng cụm từ láy “bâng khuâng” ở đây để bộc lộ sự xuyến xao trong cõi lòng. Còn từ “bồn chồn” lại lột tả tâm trạng đứng ngồi không yên, còn nhiều lo lắng của các chiến dành cho đồng bào sự dẫn đến việc không nỡ rời xa. Sở dĩ các chiến sĩ còn nhiều âu lo cho đồng bào vì dù rằng Cách mạng đã thành công, nhưng dân ta còn nghèo, nước ta còn chưa mạnh, giặc vẫn còn nhiều phen lâm le ngoài bờ cõi. Vì thế, yên tâm sao được!. Nhất là khi các chiến sĩ nhìn thấy chiếc áo chàm bà con đang mặc. Nó thật giản dị đơn sơ nhưng cũng thể hiện cả sự đói nghèo thiếu thốn. Bởi vậy dù còn nhiều bận tâm, dù không muốn rời đi, nhưng các chiến sĩ vẫn phải quyết chí để về xuôi hoàn thành nhiệm vụ. Chính bởi vậy mà “Áo chàm đưa buổi phân li/ Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”. Chỉ cầm thay mà không biết nói gì ở đây không phải vì không có gì để nói mà là có quá nhiều điều muốn chia sẻ nhưng không biết bắt đầu từ đâu, nói như thế nào. Tưởng chừng như bao câu từ cứ bị nghẹn ứ ở cổ họng, nên chỉ cầm tay nhau thôi, trao nhau hơi ấm của cơ thể cũng đủ để thay lời yêu điểm 3 nghệ thuật đặc sắcPhân tích 8 cầu thơ đầu bài Việt Bắc độc giả không chỉ cảm phục trước tấm chân tình của đồng bào Việt Bắc dành cho các chiến sĩ Cách mạng mà còn ấn tượng với tài năng của nhà thơ Tố Hữu. Cũng giống như đại thi hào Nguyễn Du, Tố Hữu đã sử dụng thành công thể thơ lục bát truyền thống. Một thể thơ dễ thuộc, dễ nhớ, dễ đi vào lòng người. Đồng thời, tác giả sử dụng hình ảnh đối đáp thân quen trong ca dao dân ca, càng làm tăng thêm sự sinh động, tự nhiên của tác phẩm. Kết hợp với việc sử dụng những hình ảnh hoán dụ, các biệt pháp nghệ thuật như câu hỏi tu từ, điệp ngữ, từ láy… đã mang tới cho độc giả những áng thơ đầy cảm xúc. Không chỉ câu từ ý nghĩa mà nhịp điệu của thơ cũng rất đằm thắm và trữ tình. Tất cả những điều đó, tổng hòa lại tạo nên một bức tranh về buổi phân li không chỉ thấm đượm tình người mà còn cả tình đồng bào, đồng bàiViệc phân tích 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc chính là cách giúp độc giả tiếp cận một cách sâu sắc hơn toàn bộ tác phẩm. Bởi đây là một trong những áng thơ tiêu biểu, mang âm hưởng núi rừng Tây Bắc rõ rệt. Đoạn thơ giống như bản tình về buổi chia tay của những con người nặng nghĩa ân tình. Mỗi câu ca mỗi hình ảnh trong đoạn thơ đều chất chứa bao nỗ niềm nhớ nhung của người đi lẫn người ở thể nói, chỉ có Tố Hữu, nhà thơ làm Cách mạng mới đủ nhạy cảm, đủ yêu thương và lý trí để sáng tác nên áng thơ bất hủ như vậy. Bởi hơn ai hết, ông là một người trong cuộc. Ông cảm nhận sâu đậm xúc cảm của người và cảnh trong buổi phân li ấy. Bằng tài năng văn chương của mình, ngay từ những câu thơ đầu, nhà thơ Tố Hữu đã phác họa thành công tấm chân tình của quân và dân trong những ngày chiến tranh đầy gian khó mà oanh Phân tích Việt Bắc học sinh giỏiTố Hữu một hồn thơ dân tộc, một nhà thơ lớn trong nền văn học Việt nam. Có thể nói những tác phẩm của ông không chỉ thể hiện tư tưởng,lẽ sống của bản thân mình mà qua đó ta còn thấy được những sự kiện quan trọng của cách mạng nước nhà. Tháng 10- 1954 sau khi chiến thắng Điện Biên Phủ bộ đội ta phải chuyển lực lượng thủ đô và chia tay với chiến khu Việt bắc. Kẻ ở người đi lòng không khỏi nhớ thương nuối tiếc tình quân dân trong mười lăm năm khánh chiến. nhân sự kiện trọng đại cùng với tâm trạng nỗi niềm ấy Tố Hữu đã viết bài thơ Việt đầu bài thơ Việt bắc là cuộc chia tay của những người kháng chiến và những người dân nơi đây“Mình về mình có nhớ taMười lăm năm ấy thiết tha mặn về mình có nhớ khôngNhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?Tiếng ai tha thiết bên cồnBâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước điÁo chàm đưa buổi phân lyCầm tay nhau biết nói gì hôm nay… ”Tám câu thơ đầu là khung cảnh cũng như tâm trạng của cuộc chia tay. Bao giờ cũng vậy “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”.Sau bao nhiêu năm chung sống ở mảnh đất Việt bắc, sống trong tình quân dân chan hòa nồng thắm ấy thế mà nay những người chiến sĩ đành phải cất bước ra đi. Mảnh đất gắn bó như thế bây giờ cũng phải chia tay. Cặp xưng hô mình ta thể hiện sự gần gũi thân thiết của cản bộ và người dân. Cái tình cảm ấy giống như những người thân trong gia đình mình vậy. Bốn câu thơ đầu là lời của người ở, những người dân Việt bắc hỏi đầy lưu luyến rằng người chiến sĩ có còn nhớ mười lăm năm thiết tha mặn nồng ấy. Không biết rằng những người chiến sĩ về có còn nhớ không, nhớ con người, nhớ núi rừng nơi đây. Những người chiến sĩ cách mạng cũng như đáp lại những ân tình ấy. Trong lòng người chiến sĩ ấy cũng lưu luyến những kỉ niệm nơi đây không khác gì so với người dân. Các chiến sĩ như cảm nhận được sự tha thiết trong câu hỏi của những người dân ấy. Lòng các chiến sĩ bâng khuâng, bồn chồn không muốn bước. Có thể nói các từ láy ấy đã thể hiện phần nào cảm xúc trong lòng người chiến sĩ. Nghệ thuật hoán dụ với hình ảnh “áo chàm” chính là để chỉ người dân Viêt Bắc bịn rịn trong màu áo ấy đưa tiễn các chiến sĩ về với thủ đô. Kẻ ở người đi mà cầm tay nhau nhưng lại không biết nói lên điều gì. Có lẽ không cần nói mà cả hai đều biết được những ý nghĩa trong lòng rồi trong hoàn cảnh ấy toàn thể những con người ở lại cất lên lời nói để nhắc lại những kỉ niệm trong mười lăm năm thiết tha mặn nồng ấy“Mình đi, có nhớ những ngàyMưa nguồn suối lũ, những mây cùng mùMình về, có nhớ chiến khuMiếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?Mình về, rừng núi nhớ aiTrám bùi để rụng, măng mai để giàMình đi, có nhớ những nhàHắt hiu lau xám, đậm đà lòng sonMình về, còn nhớ núi nonNhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt MinhMình đi, mình có nhớ mìnhTân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”Vẫn tiếng gọi mình thiết tha những người dân Việt bắc nhắc lại những ngày mưa nguồn suối lũ về, cả trời đất mây mù che kín. Khoảng khắc khó khăn ấy người dân luôn có những chiến sĩ kề bên. Hay người chiến sĩ kia về thì có nhớ đến chiến khu hay không, chiến khu ấy nghèo chỉ có cơm chấm muối thế nhưng nó tràn đầy những niềm yêu thương cưu mang đùm bọc của nhân dân nơi đây. Và trong hoàn cảnh chiến tranh khó khăn như thế miếng cơm chấm muối kia là đã quá đầy đủ rồi. Mối thù nặng vai người chiến sĩ, người dân như san sẻ gánh nặng ấy cho người chiến sĩ. Những người chiến sĩ về Hà Nội có còn nhớ đến rừng núi đất trời nơi đây. Và bây giờ trám bùi thì để rụng còn măng mai để già. Những gì của thiên nhiên Việt bắc vốn là để cho những chiến sĩ cách mạng thì giờ đây người đi những thứ ấy lại để rụng để già. Những từ nhớ như điệp đi điệp lại nhiều lần như vang vào trong lòng người những nhớ thương không muốn rời. Cặp xưng hô mình ta như biến hóa thành nhiều nghĩa, cứ lúc thì chỉ người ở lại nhưng lúc lại chỉ người ra đi. Điều đó thể hiện sự yêu thương gắn bó của những con người nơi đây với các anh chiến sĩ. Kẻ ở như thâu tóm cả thiên nhiên và con người Việt Bắc với những tình cảm của một tấm lòng son sắc không phai. Những địa danh được nhắc đến như chứng minh cho những trận chiến thắng mà các anh chiến sĩ đã lập nên tại những lời chia tay thương nhớ thiết tha ấy, người chiến sĩ cách mạng cũng như trải lòng mình nói lên những tâm tư tình cảm gắn bó“Ta với mình, mình với taLòng ta sau trước mặn mà đinh ninhMình đi, mình lại nhớ mìnhNguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…Nhớ gì như nhớ người yêuTrăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nươngNhớ từng bản khói cùng sươngSớm khuya bếp lửa người thương đi từng rừng nứa bờ treNgòi Thia sông áy, suối Lê vơi đầyTa đi, ta nhớ những ngàyMình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…Thương nhau, chia củ sắn lùiBát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùngNhớ người mẹ nắng cháy lưngịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngôNhớ sao lớp học i tờồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoanNhớ sao ngày tháng cơ quanGian nan đời vẫn ca vang núi sao tiếng mõ rừng chiềuChày đêm nện cối đều đều suối xa… ”Tố Hữu cũng học cách nói dân dã như chính những người nhân dân nơi đây vậy. Dù người chiến sĩ cách mạng ra đi thế nhưng trong lòng vẫn không thể nào quên được những kỉ niệm tình cảm ấy. Nghĩa tình giữa kẻ ở và người đi tựa như nước trong con suối kia vậy. Nó dào dạt ào ạt mãi mãi. Và những người chiến sĩ vẫn mãi đinh ninh một lời thề sắc son với người dân Việt Bắc. Từng kỉ niệm gắn bó như được thuật lại trong từng câu nói của người ra đi. Từ kỉ niệm về bát cơm thì sẻ nữa, chăn sui đắp cùng. Nhớ cả những người mẹ Việt Bắc với dáng hình địu con lên nương hái bắp. Một vẻ đẹp cần cù chịu thương chịu khó của nhân dân. Không những thế cả những giây phút cùng nhau học cái chữ quốc ngữ nữ. Đó là thái độ trật tự nghiêm túc của tất cả mọi người. Và những giờ liên hoan trong ánh đuốc lập lòe, những ngày tháng ấy như mãi khắc sâu vào trong tâm trí của người ra đi. Để mãi khi về đến thủ đô gió ngàn vẫn không sao quên tiếng mõ rừng chiều cùng chày đêm nện cối. Qua đây ta thấy được những tấm lòng của cả hai bên dành cho nhau vô cùng nồng ấm và tha anh chiến sĩ lại kể tiếp về những hình ảnh thiên nhiên nơi đây hiện lên qua những lời kể ấy thật sự rất đẹp. Những câu thơ như vẽ lên một bức tranh tứ quý nơi đây, bốn mùa thiên nhiên hiện lên vô cùng đẹp“Ta về, mình có nhớ taTa về ta nhớ những hoa cùng ngườiRừng xanh hoa chuối đỏ tươièo cao nắng ánh dao gài thắt xuân mơ nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng sợi giangVe kêu rừng phách đổ vàngNhớ cô em gái hái măng một mìnhRừng thu trăng rọi hòa bìnhNhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung. ”Có thể nói rằng xưng hô mình ta lại một lần nữa được thay đổi, Ta ở đây chính là những người chiến sĩ cách mạng. Còn mình chính là những người dân ở lại. Những người chiến sĩ ấy cũng đã hỏi những người ở lại rằng có nhớ họ không. Hỏi như thế nhằm thể hiện sự lưu luyến yêu thương với mảnh đất và con người ở đây. Không biết rằng họ có nhớ không còn những người chiến sĩ lại nhớ cả hoa cùng người. Hoa kia chính là để chỉ cho thiên nhiên Việt bắc. Sau câu hỏi và sự bày ỏ tình cảm của mình ấy những người chiến sĩ nhắc đến những cảnh vật và hoạt động của con người Việt Bắc gắn liền với bốn màu xuân hạ, thu, đông. Thế nhưng nhà thơ lại chọn miêu tả thiên nhiên và con người nơi đây vào mùa đông trước bởi vì họ đến đây vào mùa đông và ra đi cũng vào mùa đông. Mùa đông hiện lên với hình ảnh của những hình ảnh của rừng xanh và màu đỏ tươi của ho chuối. Con người hiện lên với vẻ đẹp kiên cường chinh phục tự nhiên. Đến mùa xuân thì cảnh Việt bắc hiện lên với hình ảnh hoa mơ trắng tinh khiết khắp rừng, con người thì hiện lên với vẻ đẹp của sự cần mẫn trong lao động. Mùa xuân qua đi mùa hè lại đến thiên nhiên được thay từ màu trắng hoa mơ thành màu vàng của rừng phách. Người con gái hái măng một mình. Đến mùa thu thiên nhiên lại ngập tràn trong ánh trăng rằm soi sáng. Người chiến sĩ nhớ đến những người nhân dân việt bắc với khúc hát ân tình thủy chung. Như vậy qua từng ấy câu thơ thiên nhiên và con người Việt bắc hiện lên thật đẹp như đang níu giữ bước chân người ra rồi hàng loạt những địa danh gắn liền với những hoạt động cách mạng của những người chiến sĩ được nhà thơ liệt kê ra như để khắc sâu vào trong tâm thảm mỗi người chiến sĩ về tình quân dân đã làm nên chiến thắng vang dội“Nhớ khi giặc đến giặc lùngRừng cây núi đá ta cùng đánh TâyNúi giăng thành lũy sắt dàyRừng che bộ đội rừng vây quân thùMênh mông bốn mặt sương mùất trời ta cả chiến khu một về ai có nhớ không?Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo GiàngNhớ sông Lô, nhớ phố RàngNhớ từ Cao - Lạng nhớ sang Nhị Hà… ”Chính thiên nhiên cũng như đang che chở cho những người con Việt nam. Những núi đá dựng thành chiến hào thành quách để che chở cho người chiến sĩ và nhân dân nơi đây khỏi những bom đạn của quân thù. Và khi ấy cả bộ đội cả dân quân đều cùng nhau làm nên lịch sử. Trên dưới một lòng quyết tâm đánh địch. Người về nhưng trong vẫn nhớ đến những khoảng khắc đánh trận và những địa danh thế rồi không ai bảo ai cả kẻ ở người đi đều nhớ đến những ngày ráo riết chuẩn bị hành quân cho cuộc chiến đấu chống lại chiến dịch của thực dân Pháp. Khi ấy chính là lúc tình quân dân thể hiện rõ nhất“Những đường Việt Bắc của taêm đêm rầm rập như là đất rungQuân đi điệp điệp trùng trùngÁnh sao đầu súng bạn cùng mũ nanDân công đỏ đuốc từng đoànBước chân nát đá, muôn tàn lửa đêm thăm thẳm sương dàyèn pha bật sáng như ngày mai vui chiến thắng trăm miềnHòa Bình, Tây Bắc, iện Biên vui vềVui từ ồng Tháp, An KhêVui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng. ”Đó là cảnh hành quân của những người chiến sĩ và nhân dân Việt Bắc. Tất cả đồng lòng như một, Ánh sao để chỉ người chiến sĩ còn mũ nan chính là những người dân quân Việt bắc. Cả hai cùng đồng lòng trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Những đoàn dân quân với những ngọn đuốc trên tay như soi sáng cả bầu trời Việt bắc. Ngọn đuốc ấy như một lý tưởng quyết tâm chiến đấu để bảo vệ đất nước đánh đuổi kẻ thù. Khí thế của tất thẩy với sức mạnh giống như là nát đá. Bằng biện pháp nghệ thuật phóng đại sức mạnh của nhân dân ta như được thể hiện rõ hơn. Nghìn đêm nhân dân ta phải sống trong cảnh khó khăn vất vả, cuộc sống khó khăn như đêm tối vậy. Thế rồi hình ảnh “đèn pha” bật sáng như lên thể hiện một niềm tin vào tương lai tươi sáng của những nhân dân ta. Họ đã sống trong khốn khổ để bật phá rũ bùn đứng dậy đấu tranh vì một niềm tin vào tự do hạnh phúc. Bọn giặc kia sẽ phải cút ra khỏi đất nước ta trả lại cho nhân dân ta một cuộc sống tự do và toàn vẹn lãnh thổ. Vậy là sau bao nhiêu khổ cực khó khăn nhân dân ta đã dành được chiến thắng. Tin vui ấy vui trăm mình. Từ Hòa Bình, đến Tây Bắc và Điện Biên cũng như chung vui với niềm chiến thắng ấy. Tất cả những địa danh ấy đều như thể hiện niềm vui của cả kết cho niềm vui lẫn niềm nhớ thương lưu luyến không muốn rời ấy nhà thơ cất lên những niềm tự hào về dân tộc. Đồng thời đó cũng là những giây phút nhớ về cảnh sinh hoạt đảng, biết bao nhiêu việc bàn luận ở hang động núi rừngAi về ai có nhớ không?Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa trưa rực rỡ sao vàngTrung ương, Chính phủ luận bàn việc côngiều quân chiến dịch thu đôngNông thôn phát động, giao thông mở đườngGiữ đê, phòng hạn, thu lươngGửi dao miền ngược, thêm trường các khu…Ở đâu u ám quân thùNhìn lên Việt Bắc Cụ Hồ sáng soiỞ đâu đau đớn giống nòiTrông về Việt Bắc mà nuôi chí lăm năm ấy ai quênQuê hương cách mạng dựng nên Cộng hòaMình về mình lại nhớ taMái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào. ”Ngày những người chiến sĩ trở về với miền xuôi nghe trong lòng vẫn bâng khuâng nhớ đến những ngày tháng cùng nhau kháng chiến. Những cuộc họp những niềm vui đều được thể hiện trong những câu thơ cuối này. Lá cờ đỏ sao vàng như chứng minh cho thắng lợi của nhân dân ta. Ở đâu còn rợp bóng quân thù thì ở đó có Đảng và Bác Hồ. Chính vì thế mà tất cả hãy trông về miền Bắc mà nuôi chí bền. Vì chỉ khi có chí mới làm nên được mọi việc, thắng trận ngay cả khi quân thù có đủ điều kiện hơn ta về mọi mặt. Mười lăm năm kháng chiến sẽ còn mãi trong lòng những người chiến đấu và cả nhân dân ở đây nữa. Bao nhiêu gian khổ là bấy nhiêu tình vậy nhà thơ Tố Hữu đã thể hiện những tâm sự của mình nói riêng và của tất cả những chiến sĩ và nhân dân Việt bắc nói chung. Mười lăm năm kháng chiến với biết bao nhiêu kỉ niệm và giờ đây khi phải xa nhau thấy lòng mình thật muốn vỡ òa trong nức nở. Chân không muốn rời xa. Qua đây ta thấy được tình nghĩa đoàn kết keo sơn của con người Việt Nam mà cụ thể đó là tình quân dân. Để đạt được những thắng lợi trên mặt trận ấy thì không thể nào quên ơn những người nhân dân Việt Bắc các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của khảo thêmMẫu thư khen học sinh tiểu học 2023 Mẫu giấy khen ngợi học sinhLời chúc 20-11 cho cô giáo hay và ý nghĩa 2023 Lời chúc 20/11 cho cô giáo chủ nhiệmTop 15 bài phân tích Thương vợ của Tú Xương hay nhất Phân tích bài thơ Thương vợTop 14 bài phân tích Vội vàng của Xuân Diệu siêu hay Phân tích bài thơ Vội vàngLời chúc tháng 11 hay nhất Stt tháng 11, những câu nói hay về tháng 11Kế hoạch tổ chức hội thi văn nghệ 20/11 2022 Kế hoạch tổ chức hội diễn văn nghệ chào mừng ngày Nhà giáo Việt NamĐáp án Học và làm theo lời Bác 2022 bảng C tuần 5 - hocvalamtheobac vn Cuộc thi “Tuổi trẻ học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” Các bạn học sinh lớp 12 đang tìm kiếm tài liệu mẫu phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7 đầy đủ và chi tiết nhất? Các bạn muốn sử dụng tài liệu ấy để tham khảo cho bài làm văn của mình thêm phong phú và sâu sắc? Dưới đây là bài văn mẫu mà các bạn đang cần. Hãy theo dõi và sử dụng đúng cách để bài văn của các bạn đạt điểm cao nhé! Tình quân dân trong những năm tháng kháng chiến đã trở thành nguồn cảm hứng sâu sắc cho các nhà văn, nhà thơ Việt Nam sáng tác. Tiêu biểu có tác phẩm Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu. Cả tác phẩm là một bài ca đầy xúc cảm về tình quân dân trong những năm gian khó. Đặc biệt phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7 các bạn sẽ hiểu thêm về mối thân tình sâu nặng cũng như bức tranh thiên nhiên tươi đẹp của vùng Việt đang xem Phân tích việt bắc khổ 7Chi tiết phần mở bài phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7Trước khi đi vào phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7, các bạn cần giới thiệu qua về tác giả Tố thơ Tố Hữu có tên thật là Nguyễn Kim Thành. Ông sinh năm 1920 và mất năm 2002. Ông là người con của xứ Huế. Quê ông ở làng Phù Lai nay là xã Quảng Thọ, Quảng Điền, Thừa Thiên Huế. Ông sinh ra và lớn lên trong nhà nho nghèo có truyền thống thơ ca, văn chương. Do vậy, ngay từ thủa nhỏ, nhà thơ Tố Hữu đã sớm được làm quen và tiếp cận với nền văn học nền văn học Việt Nam, ông được biết đến là một nhà thơ tiêu biểu đồng thời cũng là một nhà chính trị gia có tầm ảnh hưởng lớn. Ông đã từng tham gia vào các công tác ở hệ thống chính trị và từng giữ các chức vụ quan trọng như như Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Chủ tịch thứ Nhất Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt nhiên, với độc giả Việt Nam, Tố Hữu là một nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam. Mỗi tác phẩm của nhà thơ là một câu chuyện đong đầy cảm xúc và gắn bó với những giai đoạn Cách mạng của đất nước. Chính vì sinh ra và lớn lên trong hoành cảnh dân tộc khó khăn, nhiều gian lao nên nhà thơ Tố Hữu sớm có ý thức trách nhiệm của một người con biết hy sinh vì sự nghiệp phát triển của đất nước. Ông cũng đã từng vào sinh ra tử cùng đồng đội trên khắp các mặt trận, cũng từng nếm trải cuộc sống lao tù đau khổ, nhưng nhà thơ Tố Hữu vẫn luôn nuôi dưỡng tinh thần yêu nước nồng nàn. Chính vì vậy những tác phẩm cũng luôn mang tới cho độc giả những cảm xúc về tình yêu quê hương đất nước cháy những tác phẩm tiêu biểu của Tố Hữu, Việt Bắc là bài thơ chiếm được nhiều tình cảm hơn cả. Bài thơ gồm 18 khổ thơ. Mỗi khổ thơ đều chan chứa ân tình quân dân Việt Bắc và các chiến sĩ Cách mạng. Trong đó, khổ 7 để lại nhiều xúc cảm về tình cảm con người chân thành và bức tranh thiên nhiên Việt Bắc sâu sắc hơn cả.“Ta về, mình có nhớ taTa về, ta nhớ những hoa cùng xanh hoa chuối đỏ tươiĐèo cao nắng ánh dao gài thắt xuân mơ nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng sợi kêu rừng phách đổ vàngNhớ cô em gái hái măng một mìnhRừng thu trăng rọi hoà bìnhNhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”.Phần chi tiết thân bài Luận điểm 1 phân tích hai câu đầu. Đây là hai câu thơ thể hiện nỗi nhớ da diết của người ở và người đi.“Ta về, mình có nhớ taTa về, ta nhớ những hoa cùng núi rừng Việt Bắc, thì hoa và người là những gì đẹp nhất nơi đây. Có thể thế thấy, nhà thơ Tố Hữu đã sử dụng cách nói nghệ thuật tượng trưng “hoa” để đại diện cho cả thiên nhiên tươi đẹp của vùng núi Tây Bắc. Nhắc đến hoa là chúng ta có thể cảm nhận được sức sống tươi mới cùng những màu sắc rực rỡ đầy sức sống của đất trời. Đọc hai câu thơ, chúng ta có thể thấy rõ, với những người về xuôi, trong nỗi nhớ của họ, hoa và người nơi đây là những hình ảnh cùng xuất hiện, cùng nhau soi chiếu không tách rời. Nếu như hoa là tổng hòa vẻ đẹp kỳ diệu của thiên nhiên thì còn người là sản phẩm tuyệt diệu của tạo hóa. Bởi thế, khi người về thấy nhớ những hoa cùng người, thì không chỉ nói về nỗi nhớ đơn thuần mà còn thể hiện ý ca ngợi vẻ đẹp cả tâm hồn lẫn dáng vẻ của người ở điểm 2 phân tích tám câu thơ tiếp theoPhân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7, độc giả không chỉ cảm nhận rõ nỗi nhớ niềm thương của người ở và người về mà còn thấy hiện lên một bức tranh thiên nhiên bốn mùa của chiến khu Việt Bắc vô cùng đẹp đẽ, rực rỡ, căng tràn sức tiên là vẻ đẹp bức tranh mùa đông của Việt Bắc với “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi/ Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Đọc hai câu thơ lên, chúng ta có thể mới đầu, bức tranh xuất hiện với một gam màu lạnh. Đó là màu xanh tĩnh mịch, mênh mông của những cánh rừng gia. Khơi gợi cảm giác một xứ sở bình yên, xa vắng nhưng êm đềm. Tuy nhiên, đúng lúc đó lại xuất hiện một gam màu nóng đó chính là màu đỏ tươi của hoa chuối. Màu đỏ đó làm nổi bật lên sức sống, của toàn bộ cảnh rừng xa vắng đó. Thông qua nét chấm phá này, nhà thơ Tố Hữu muốn gửi gắm thông điệp về màu đỏ của cách mạng. Dường như màu đỏ là màu chiến thắng của Cách mạng đã nhen nhóm, và xua đi cái lạnh thâm sâu của núi rừng trong mùa đông lạnh đến là hai câu thơ nói vẽ nên bức tranh mùa xuân tươi đẹp với “Ngày xuân mơ nở trắng rừng/ Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.” Chỉ với hình ảnh mơ nở trắng rừng, nhưng nhà thơ Tố Hữu đã mở ra cho độc giả một không gian núi rừng Tây Bắc vào mùa xuân thật đầy sức sống. Hoa mơ là loài hoa đặc trưng của núi rừng nơi đây. Với màu trắng tinh khôi, dịu dàng và mơ mộng của hoa mơ là làm sáng bừng cả bức tranh, cả khu rừng. Có thể nói, đây cũng là hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng. Khơi gợi lên vẻ đẹp trong sáng, vô tư hồn hậu trong tâm hồn của con người vùng núi Tây qua mùa xuân, chúng ta tiếp tục ngắm bức tranh tươi đẹp của mùa hè. Bức tranh thiên nhiên mùa hè của Việt Bắc hiện lên trong tâm thức, nỗi nhớ của người đi không chỉ là ánh sáng, đường nét hay ánh sáng, mà còn có cả âm thanh vang vọng của tiếng ve gọi hè “Ve kêu rừng phách đổ vàng/ Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Ở Việt Bắc, con người cảm nhận rất rõ khi hè về, bởi khi đó, rừng phách cũng chuyển màu. Nếu khi mùa xuân vẫn còn, nụ hoa vẫn còn náu kín trong những kẽ lá nhưng chỉ khi tiếng ve vừa cất lên, thì các hoa đã nhất loạt trổ vàng. Ở đây, tác giả sử dụng từ “đổ” khá tinh tế và độc đáo. Nó diễn tả sự đột ngột và mau lẹ trong quá trình thay đổi của núi rừng chỉ sau khi gió thổi, ve kêu giống như một trận mưa hoa vàng cùng, bức tranh bốn mùa của thiên nhiên Việt Bắc được kết thúc bằng hình ảnh đêm thu có ánh trăng rọi qua vòm lá. “Rừng thu trăng rọi hoà bình”. Một hình ảnh thật thanh bình và huyền ảo. Đó là khung cảnh khơi gợi sự lãng mạn, phù hợp để bộ lộ những tâm tư tình cảm như những khúc ca giao duyên ân tình. Câu thơ báo hiệu một cuộc sống yên vui, hòa bình. Qua đó, tác giả cũng bộc lộ cảm nhận về sự hòa hợp thanh bình giữa thiên nhiên, vũ trụ với những tình cảm chân thành giữa người ở và người điểm 3 phân tích hình ảnh con người Việt Bắc trong khổ 7 Khi phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7, các bạn không thể không phân tích hình ảnh nỗi nhớ người ở của người về. Có thể thấy, trong mỗi bức tranh thiên nhiên của vùng núi Việt Bắc, tác giả luôn có kèm theo và đan xen hài hòa hình ảnh của con người. Có thể thấy, con người gắn bó rất khăng khít với thiên nhiên, khiến cho núi rừng giảm bớt đi sự hoang sơ, xa vắng. Giữa thiên nhiên tươi đẹp ấy, cong người được khắc hoạt thật dễ thương, bình dị, hồn hậu, luôn yêu lao động hăng bức tranh mùa đông, con người hiện lên với tư thế hiên ngang, vững mạnh trong lao động “dao gài thắt lưng”. Trong khi đó, ở bức tranh mùa xuân, hình ảnh con người Việt Bắc lại được miêu tả qua sự dịu dàng, cần mẫn của các cô gái dân tộc đang “chuốt từng sợi giang”. Hình ảnh cô gái đang làm được khắc họa rõ nét đậm đà như một thước phim quay chậm, giúp độc giả cảm nhận rõ rệt đường nét, hình khối, động tác tỉ mỉ của người lao đến, trong bức tranh mùa hè, con người được thể hiện của hình ảnh “Cô gái hái măng một mình”. Qua đây, độc giả có thể thấy sự chăm chỉ, cần mẫn và kiên nhẫn của con người Việt Bắc. Giữa núi rừng mênh mông ấy, con người vẫn chăm chỉ, tỉ mỉ làm về người Việt Bắc, người về xuôi không chỉ nhớ về hình ảnh chăm chỉ làm việc, vẻ đẹp của sự hăng say lao động mà còn cả “tiếng hát ân tình thuỷ chung”. Tiếng hát ân tình, là tiếng nói của tâm hồn, là tiếng lòng son sắc của người dân Việt Bắc dành cho các chiến sĩ Cách mạng. Chỉ có gắn bó với nhau trong những gian khổ, đau thương, con người ta mới có thể cảm nhận hết được sự chân thành của tình kết bài chi tiếtQua quá trình phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 7 của nhà thơ Tố Hữu, chúng ta có thể cảm nhận rõ nỗi nhớ da diết của người về xuôi là những chiến sĩ Cách mạng dành cho người dân Việt Bắc. 15 năm ăn ở nơi đây, khiến cho thiên nhiên lẫn con người Việt Bắc đã in sâu trong tâm trí và trái tim của người các chiến sĩ. Mỗi âm thanh, mỗi hình ảnh, mỗi khoảnh khắc, mỗi dáng vẻ đều để lại cho người về những niềm thương nỗi nhớ tha thêm Là Nơi Freelancer Tìm Việc Nhiều Nhất Nhưng Vlance Vn Là Gì, Hướng Dẫn Sử Dụng Vlance Là GìVới thể thơ lục bát, bài thơ Việt Bắc đã đi vào lòng người như một bài ca đi cùng năm tháng, ca ngợi tình quân dân trong những năm kháng chiến gian khó.

phân tích việt bắc khổ 7