Công thức để tính hiệu của hai số chính phương: a 2 -b 2 = (a-b) (a+b). Số ước nguyên dương của số chính phương là một số lẻ. Số chính phương chia hết cho số nguyên tố p thì chia hết cho p 2. Tất cả các số chính phương có thể viết thành dãy tổng của các số lẻ tăng cash. Tài liệu gồm 69 trang, được trích đoạn từ cuốn sách Phân dạng và phương pháp giải toán số học và tổ hợp của tác giả Nguyễn Quốc Bảo, hướng dẫn giải các bài toán về số chính phương, giúp học sinh ôn tập thi học sinh giỏi Toán bậc THCS và luyện thi vào lớp 10 môn KIẾN THỨC CẦN NHỚ 1. Định nghĩa số chính phương. 2. Một số tính chất cần nhớ. B. CÁC DẠNG TOÁN THƯỜNG GẶP Dạng 1 Chứng minh một số là số chính phương, hoặc là tổng nhiều số chính phương. Để chứng minh một số n là số là số chính phương ta thường dựa vào định nghĩa, tức là chứng minh n = k^2 k thuộc Z. Dạng 2 Chứng minh một số không là số chính phương. Để chứng minh n không là số chính phương, tùy vào từng bài toán ta có thể sử dụng các cách sau 1 Chứng minh n không thể viết được dưới dạng một bình phương một số nguyên. 2 Chứng minh k2 < n < k + 12 với k là số nguyên. 3 Chứng minh n có tận cùng là 2; 3; 7; 8. 4 Chứng minh n có dạng 4k + 2; 4k + 3. 5 Chứng minh n có dạng 3k + 2. 6 Chứng minh n chia hết cho số nguyên tố p mà không chia hết cho p2. Dạng 3 Điều kiện để một số là số chính phương. Chúng ta thường sử dụng các phương pháp sau + Phương pháp 1 Sử dụng định nghĩa. + Phương pháp 2 Sử dụng tính chẵn, lẻ. + Phương pháp 3 Sử dụng tính chất chia hết và chia có dư. + Phương pháp 4 Sử dụng các tính chất. Dạng 4 Tìm số chính phương. Dựa vào định nghĩa về số chính phương A = k^2 với k là số nguyên và các yêu cầu của bài toán để tìm ra số chính phương thỏa bài toán. C. BÀI TẬP ÁP DỤNG D. HƯỚNG DẪN GIẢI – ĐÁP SỐ Tài Liệu Toán Ôn Thi Vào Lớp 10Ghi chú Quý thầy, cô và bạn đọc có thể chia sẻ tài liệu trên bằng cách gửi về Facebook TOÁN MATH Email [email protected] Số chính phương là kiến thức các bạn được học trong chương trình Toán lớp 6. Đây là một kiến thức trong tâm trong Toán 6. Vậy số chính phương là gì? Các dạng bài tập về số chính phương? Thông báo Giáo án, tài liệu miễn phí, và các giải đáp sự cố khi dạy online có tại Nhóm giáo viên mọi người tham gia để tải tài liệu, giáo án, và kinh nghiệm giáo dục nhé! Số chính phương là gì? Những kiến thức cần nhớ về số chính phương. Định nghĩa Số chính phương là số bằng bình phương đúng của một số nguyên hay một số tự nhiên. Có thể hiểu số chính phương là thể hiện như diện tích của hình vuông, trong đó chiều dài cạnh là số nguyên. Tính chất của số chính phương Số tận cùng của số chính phương chỉ có thể là 0, 1, 4, 5, 6, 9, không thể có tận cùng là 2, 3, 7, chứa các thừa số nguyên tố với số mũ chẵn khi phân tích số chính phương ra thừa số nguyên chính phương chỉ có thể có một trong hai dạng 4n hoặc 4n + 1 n ∈ NSố chính phương chỉ có thể có một trong hai dạng 3n hoặc 3n + 1 n ∈ NCó chữ số tận cùng bằng 1 hoặc 9 thì chữ số hàng chục của số chính phương là số tận cùng bằng 5 thì chữ số hàng chục của số chính phương là 2Có tận cùng bằng 6 thì chữ số hàng chục của số chính phương là chữ số chia hết cho 2 sẽ chia hết cho chia hết cho 3 sẽ chia hết cho 9SCP chia hết cho 5 sẽ chia hết cho 25SCP chia hết cho 8 sẽ chia hết cho tính chất trên cũng như những dấu hiệu nhận biết của số chính phương. Hãy trọng tâm vào tính chất để giải bài toán về số chính phương. Các dạng bài tập thường gặp Có hai dạng bài tập về số chính phương đó là Chứng minh một số không phải là số chính minh một số là số chính nắm vững cách giải và những bài tập vận dụng mỗi dạng. Mời các bạn tham khảo tài liệu bên dưới. Bài tập chứng minh một số không là số chính phương Những dạng này thường có trong đề thi hsg Toán 6. Một số phương pháp thường được sử dụng Nhìn chữ số tận cùngDùng tính chất của số dưKẹp số giữa hai số chính phương liên tiếpDưới đây là bài tập ví dụ cho dạng này Ví dụ 1 Chứng minh A = 20042 + 20032 + 20022 – 20012 không phải là số chính phương? Lời giải Dựa vào những lí thuyết chúng tôi đã đưa ra ở trên, có thể thấy chữ số tận cùng của 20042, 20032, 20022 và 20012 lần lượt là 6, 9, 4, 1. Như vậy, chữ số tận cùng của A là 8. Từ đó, có thể kết luận được là A không phải là số chính phương. Ví dụ 2 Chứng minh số B = 1234567890 không phải là số chính phương. Lời giải Ta có thể thấy B chia hết cho 5 nhưng không chia hết cho 25. Do đó, B không phải là số chính phương. Bài tập chứng minh một số là số chính phương. Một số phương pháp thường được áp dụng cho dạng này là Sử dụng định nghĩa của số chính phươngDựa vào tính chấtDưới đây là một bài tập ví dụ Toán lớp 6 về chứng minh số chính phương Đề bài Chứng minh với m, n là số tự nhiên thỏa mãn 3m2 + m = 4n2 + n thì các biểu thức m – n và 4m + 4n + 1 đều là số chính phương. Lời giải Ta có 3m2 + m = 4n2 + n 4m2 – n2 + m – n = m2 m – n4m + 4n + 1 = m2 1 Gọi a là ước chung lớn nhất của m – n và 4m + 4n + 1 thì 4m + 4n + 1 + 4m – n chia hết cho a => 8m + 1 ⋮ a. Từ 1 ta có m2 chia hết cho a2 => m ⋮ a. Do 8m + 1 ⋮ a và m ⋮ a ta có 1 ⋮ a => a = 1. Vậy m – n và 4m + 4n + 1 là các số tự nhiên nguyên tố cùng nhau, thỏa mãn 1 nên chúng đều là các số chính phương Sưu tầm Thu Hoài Tải tài liệu miễn phí ở đây Table of Contents1. Thế nào là số chính phương ?2. Tính chất số chính phương3. Ví dụ về số chính phương4. Các bài toán về số chính phương lớp 6Bài tập 1 Chứng minh một số không phải là số chính phươngBài tập 2 Chứng minh một số là số chính phươngHãy cùng khám phá "số chính phương" trong toán học. Bạn đã bao giờ tự hỏi số chính phương là gì và làm thế nào để nhận biết chúng? Hãy để chúng tôi giới thiệu cho bạn một bài chuyên đề số chính phương, với các khái niệm và ví dụ cụ thể. Cùng tìm hiểu và khám phá những điều thú vị về loại số đặc biệt này!Những số chính phương đơn giản nhất Nguồn Internet1. Thế nào là số chính phương ?Số chính phương là số bằng bình phương đúng của một số hiểu đơn giản, số chính phương là một số tự nhiên có căn bậc hai cũng là một số tự nhiên. Số chính phương về bản chất là bình phương của một số tự nhiên nào đó. Số chính phương là diện tích của một hình vuông với cạnh là số nguyên số nguyên bao gồm các số nguyên dương, nguyên âm và số số chính phương được gọi là số chính phương chẵn nếu như nó là bình phương của một số chẵn, ngược lại. Một số chính phương được gọi là số chính phương lẻ nếu như nó là bình phương của một số Tính chất số chính phươngSố chính phương chỉ có chữ số tận cùng là 0,1,4,5,6,9, nếu các số tận cùng là 2,3,7,8 thì không phải là số chính phân tích ra thừa số nguyên tố, số chính phương chỉ chứa các thừa số nguyên tố với số mũ chính phương chỉ có thể có 1 trong 2 dạng 4n hoặc 4n + 1, không có số chính phương nào có dang 4n + 2 hoặc 4n + 3 với n € N.Số chính phương chỉ có thể có 1 trong 2 dạng 3n hoặc 3n + 1, không có số chính phương nào có dang 3n + 2 với n € N.Số chính phương có chữ số tận cùng là 1 hoặc 9 thì chữ số hàng chục là chữ số chính phương tận cùng bằng 5 thì chữ số hàng chục là chính phương tận cùng bằng 4 thì chữ số hàng chục là chữ số chính phương tận cùng bằng 6 thì chữ số hàng chục là chữ số chính phương chia hết cho 2 thì chia hết cho chính phương chia hết cho 3 thì chia hết cho chính phương chia hết cho 5 thì chia hết cho chính phương chia hết cho 8 thì chia hết cho chính phương chia cho 3 không bao giờ có số dư là 2; chia cho 4 không bao giờ dư 2 hoặc 3; số chính phương lẻ khi chia 8 luôn dư dụ932; 36 62; là số chính thức để tính hiệu của hai số chính phươnga2 - b2 = a+ba-b.Ví dụ62 – 32 = 6+36-3 = = ước nguyên dương của số chính phương là một số chính phương chia hết cho số nguyên tố p thì chia hết cho dụSố chính phương 36 62 chia hết cho 2 => 36 chia hết cho 4 22Số chính phương 144 122 chia hết cho 3 1443=48 => 144 chia hết cho 9 1449=16Tất cả các số chính phương có thể viết thành dãy tổng của các số lẻ tăng dần từ 1 = 1, 4 = 1 + 3, 9 = 1 + 3 + 5, 16 = 1 + 3 + 5 + 7, 25 = 1 + 3 + 5 + 7 + 9, ... Ví dụ về số chính phươngCác chuyên đề toán ở trung học đã có rất nhiều dạng bài tập về số chính phương. Dựa theo khái niệm và tính chất phía trên, ta có một số ví dụ về số chính phương như sauCác số 4, 9, 16, 25, 36, 49, 64, 81, 144, 225, 576 đều là số chính 22 là một số chính phương chẵn9= 32 là một số chính phương lẻ16= 42 là một số chính phương chẵn25 = 52 là một số chính phương lẻ36= 62 là một số chính phương chẵn225 = 152 là một số chính phương lẻ289 = 172 là một số chính phương lẻ576 = 242 là một số chính phương là một số chính phương chẵnSố chính phương ứng dụng nhiều trong đời sống Nguồn Internet4. Các bài toán về số chính phương lớp 6Bài tập 1 Chứng minh một số không phải là số chính phươnga. Chứng minh số n = 20042 + 20032 + 20022 - 20012 không phải là số chính giảiTa thấy chữ số tận cùng của các số 20042, 20032, 20022, 20012 lần lượt là 6,9,4,1. Do đó số n có chữ số tận cùng là 8 nên n không phải là số chính Chứng minh 1234567890 không phải là số chính giảiTa thấy số 1234567890 chia hết cho 5 vì chữ số tận cùng là 0 nhưng lại không chia hết cho 25 vì hai chữ số tận cùng là 90. Vì vậy, số 1234567890 không phải là số chính tập 2 Chứng minh một số là số chính phươngChứng minh Với mọi số tự nhiên n thì an = nn+1n+2n+3 + 1 là số chính giảiTa cóan = nn+1n+2n+3 + 1= n2 + 3nn2 + 3n + 2 +1= n2 + 3n2+ 2n2 + 3n + 1= n2 + 3n + 12Với n là số tự nhiên thì n2 + 3n + 12 cũng là số tự nhiên, vì vậy, an là số chính chính phương trong chương trình Toán học lớp 6 Nguồn InternetHy vọng bài viết này đã cung cấp cho bạn những kiến thức có ích về số chính phương giúp cho công việc học tập và nghiên cứu của bạn thêm thuận lợi. Thể hiện rõ nhất trên lĩnh vực đầu tư công, quản lý đất đai, bất động sản, mua sắm trang thiết bị khu vực công, thủ tục hành chính đầu tư cho phát triển doanh nghiệp, cung ứng các dịch vụ trực tiếp liên quan đến người dân và doanh nghiệp... Tình trạng này đã làm chậm trễ và trì trệ hoạt động công vụ, bào mòn và làm suy giảm niềm tin của người dân và doanh nghiệp đối với cơ quan nhà nước. Và quan trọng hơn, nó cản trở động lực và nguồn lực phát triển, ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội. Tuy nhiên, cũng có đại biểu cho rằng có được hệ thống pháp luật rõ ràng, minh bạch, chặt chẽ thì cán bộ mới có sự tự tin để làm. Cán bộ không sợ sai, không sợ trách nhiệm, dám năng động, sáng tạo, chỉ khi có được sự bảo vệ dựa trên cơ sở vững chắc của các quy định pháp chứng sợ saiTâm lý sợ sai không dám làm, thu mình lại với quan niệm “không làm không sai” xuất hiện “ngày càng nhiều” kể từ sau đại dịch COVID-19. Có người ví von rằng, nếu như COVID-19 rút cạn sức lực của đội ngũ nhân viên y tế, thì các cuộc thanh tra, kiểm tra diễn ra sau đó được ví như những cơn gió, làm “lạnh sống lưng” nhiều người vừa bước ra từ cuộc chiến với đại dịch. Đây là bối cảnh “giọt nước tràn ly” khiến nỗi sợ lan rộng trong ngành y tế, dẫn tới hàng loạt hệ lụy, trong đó nghiêm trọng nhất là tình trạng thiếu thuốc, thiếu vật tư y tế cho các bệnh viện công lập. Tương tự, hàng nghìn héc-ta đất bị bỏ hoang hóa nhiều năm có nguyên nhân cả khách quan, chủ quan và từ chính các nhà đầu tư. Một số dự án gặp khó khăn trong giải phóng mặt bằng do chính sách thay đổi qua nhiều thời kỳ; Công tác giải quyết thủ tục hành chính liên quan tới các dự án có vốn ngoài ngân sách sử dụng đất còn chậm. Một số chủ đầu tư cố ý chây ì không làm thủ tục, chậm phối hợp giải phóng mặt bằng đưa đất vào sử việc chậm giải ngân vốn đầu tư công cũng không phải là chuyện mới. Gần hết quý 1 năm 2023 nhưng vẫn còn 33 bộ, ngành cơ quan Trung ương và 55 địa phương chưa phân bổ chi tiết kế hoạch đầu tư vốn ngân sách Trung ương; trong đó đáng chú ý là Bộ Y tế chưa thực hiện phân bổ tức là 0% kế hoạch đầu tư vốn ngân sách Trung ương năm 2023. Nguyên nhân của tình trạng chậm chạp này được cho là do giá vật liệu xây dựng tăng cao, tác động của dịch COVID-19 khiến thời gian thực hiện dự án kéo dài. Bên cạnh đó còn do năng lực của chủ đầu tư, nhà thầu và đặc biệt do tâm lý sợ sai, quan niệm “không làm để bảo toàn cá nhân” của không ít cán ra nguyên nhân để có giải pháp triệt tiêu tâm lý “sợ sai”, “sợ trách nhiệm”, bà Phạm Khánh Phong Lan - Chủ tịch Hội Dược học Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, ở đây chưa có sự đồng bộ của hệ thống pháp luật đối với một số vấn đề, dẫn đến tình trạng “đối với vấn đề này áp dụng luật này thì đúng, nhưng khi thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra thì lại sai. Áp dụng vào thời điểm này thì đúng, nhưng sau đó kiểm tra thời điểm khác thì lại sai”.Bà Phạm Khánh Phong Lan cho biết “Bằng chứng là tôi đi giám sát thực tế đến một số tỉnh, thành, ý kiến cho rằng Lúc dịch bệnh “chống dịch như chống giặc” thì họ tích trữ thuốc theo Nghị quyết 30 của Quốc hội. Họ nghĩ có Nghị quyết của Quốc hội cứ thế làm. Nhưng khi thanh tra, kiểm toán vào thì kiểm toán theo pháp luật hiện hành. Chưa kể bây giờ còn đối mặt với lao tù, không ai dám làm, sợ”.Theo Đoàn Thế Hanh - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, việc chưa hoàn thiện các quy định pháp luật cũng chỉ là yếu tố khách quan. Nguyên nhân chủ quan đó là yếu tố con người mới là chính. Bởi thực tế đã chứng minh, ở đâu người đứng đầu và cấp ủy quan tâm, cán bộ dám đột phá thì ở đó mức độ hoàn thành nhiệm vụ rất cao “Tôi cho rằng, sợ sai và không dám quyết ở hai dạng. Dạng thứ nhất là không nắm vững chủ trương, đường lối quan điểm của Đảng mới sợ sai. Nếu nắm vững rồi thì trên cơ sở quan điểm chủ trương, chính sách, thậm chí cả những để xuất lên để xin phép làm thí điểm thì không sợ sai. Thứ hai là kém về phẩm chất đạo đức, chưa đủ, chưa ngang tầm chứ. Nếu vì dân vì nước thì hy sinh vẫn cứ làm”.Thực tế, trong bối cảnh khó khăn, năm 2022 vẫn có 8 bộ, ngành cơ quan Trung ương và 30 địa phương hoàn thành 100% kế hoạch được giao. Đây là nguyên nhân và minh chứng thực tế về bản lĩnh của cán bộ.“Lửa thử vàng, gian nan thử sức”, chỉ trong lúc khó khăn nhất mới thấy được năng lực, ý chí của những người dám đổi mới. Ủy viên Thường trực Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Trần Văn Lâm cho rằng Các khâu giải ngân đầu tư công liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều cơ quan nhiều nội dung chính sách pháp luật. Trong đó có cả những nội dung chưa thực sự là rõ ràng, còn chồng chéo, làm cản trở, làm khó khăn cho quá trình thực hiện giải ngân đầu tư công. Chính những khó khăn này làm cho một bộ phận cán bộ nếu như không mạnh dạn, không dám nghĩ, dám làm, quyết đáp, không dám chịu trách nhiệm thì sẽ “chùn tay”.Mình làm việc công tâm, khách quan thì sao phải sợ?Thời gian qua, công cuộc đấu tranh phòng chống, tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước đạt được nhiều thành quả tích cực, được nhân dân đồng lòng, phấn khởi. Theo đó, việc xử lý những cán bộ nhúng chàm, tham nhũng, lạm dụng… theo quy định pháp luật là cần thiết và thường xuyên, đó là chức trách nhiệm vụ của cơ quan bảo vệ pháp luật. Cán bộ công chức phải nhìn vào những bài học đó mà rút kinh nghiệm, rèn luyện bản thân để cống hiến, làm việc tốt hơn chứ không phải để co lại, sợ sai. Mình làm việc công tâm, khách quan thì sao phải sợ?Tuy nhiên, bên cạnh việc siết chặt kỷ luật, kỷ cương, các cơ quan chức năng cũng cần tự tay “bốc thuốc” cho mình, nhanh chóng thay đổi, chỉnh sửa những bất cập trong không ít quy định thực thi công vụ. Một việc mà nhiều quy định quá, quy định này lại trái, chồng chéo với quy định kia cũng gây khó khăn cho cán bộ, công chức. Không làm thì trì trệ, làm thì không biết theo quy định nào là đúng...Theo Lê Quốc Lý – nguyên Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, đã đến lúc phải nhìn thẳng vào căn nguyên của vấn đề và cần thay đổi cách đánh giá cán bộ. Ông Lê Quốc Lý cho rằng, cần đánh giá cán bộ một cách định lượng với những tiêu chí rất cụ thể, khoa học chứ không thể đánh giá theo kiểu định tính, chung chung. Có thể gọi đó bộ KPI - chỉ số đánh giá thực hiện công việc. KPI sẽ giúp hiểu rõ một công ty, một đơn vị kinh doanh hay một cá nhân đang thực hiện công việc tốt đến đâu so với các mục tiêu chiến lược đã đề ra. “Trong một năm, một cán bộ ở vị trí của mình làm được những gì, kết quả thế nào phải hết sức cụ thể, chứ không chung chung, đại khái. Nếu một cán bộ ở vị trí lãnh đạo mà lúc nào cũng giữ mình tròn trĩnh, không hành động vì lợi ích chung sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy. Mà hệ lụy lớn nhất là đánh mất niềm tin của nhân dân”, ông Lê Quốc Lý cho Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cho biết, nếu như trước đây, kiểu cán bộ làm việc “tròn trĩnh” thường an toàn, có khi lại được cất nhắc, nhưng bây giờ cần phải thay đổi cách đánh giá. Người nào “tròn trĩnh” mà né tránh, đùn đẩy trách nhiệm thì không hoàn thành nhiệm đó, đánh giá cán bộ lãnh đạo cần phải định lượng trên các tiêu chí Giải ngân đầu tư công và tăng trưởng kinh tế thế nào, đời sống nhân dân có được cải thiện không, người dân có hài lòng không? Đảng và Nhà nước cần “đặt hàng” những nhiệm vụ rất cụ thể sát với thực tiễn cho cán bộ và xem họ có đạt KPI không từ đó mới có cách đánh giá toàn diện, là cơ sở để thay thế, điều chuyển hay cất nhắc, bổ nhiệm vị trí mới cao cuộc đổi mới từ Đại hội Đảng lần thứ VI bắt đầu từ việc nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật. Theo đó, muốn có giải pháp trị căn bệnh “sợ trách nhiệm”, trước hết cần phải nhìn thẳng vào sự thật và nói rõ sự Lê Quốc Lý cho rằng, cán bộ không thể “giậm chân tại chỗ” mà vẫn “hoàn thành nhiệm vụ” được. Do đó, cần phải có một lực đẩy để những người trong bộ máy công quyền tiến về phía trước, nếu không tiến sẽ bị loại ra khỏi hệ thống. Bởi vì trong bối cảnh hiện nay, tình hình trong nước và thế giới có nhiều khó khăn thì cán bộ đảng viên càng cần phải thể hiện tinh thần trách nhiệm, năng động sáng tạo chứ không phải tìm cách né tránh, đùn lâu dài, cần đẩy mạnh rà soát, bổ sung, hoàn thiện thể chế, chính sách, nhất là lĩnh vực kinh tế xã hội còn vấn đề phát sinh, khó khăn vướng mắc; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với trách nhiệm cụ thể và việc kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền cạnh đó, ngoài việc kịp thời điều chuyển, thay thế cán bộ năng lực hạn chế, đùn đẩy, né tránh, sợ trách nhiệm, nhất là cán bộ lãnh đạo mà không chờ hết nhiệm kỳ, thì việc đồng hành, khuyến khích sự sáng tạo, đổi mới, hành động đột phá vì lợi ích chung của những cán bộ có bản lĩnh, dám nghĩ, dám làm cũng rất quan ông Vũ Văn Phúc – Phó Chủ tịch Hội đồng khoa học các cơ quan Đảng Trung ương, để loại bỏ những cán bộ ỉ lại tập thể, sợ trách nhiệm, không dám quyết đoán, cần thực hiện theo tinh thần lãnh đạo Đảng đã nói Ai nhụt chí thì đứng sang một bên cho người khác làm. Bên cạnh đó phải chọn đúng cán bộ. Nếu trót chọn sai người thì phải thay ngay mà không chờ hết nhiệm kỳ. Còn những cán bộ nào cố tình gây thất thoát, lãng phí, tiêu cực, tham nhũng, lợi ích nhóm thì phải xử lý nghiêm, “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”.Trước đó, trong Nghị quyết số 74/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 4/2023, Chính phủ yêu cầu xử lý nghiêm tổ chức, cá nhân né tránh, đùn đẩy công việc, thoái thác nhiệm vụ, thiếu trách nhiệm để xảy ra chậm trễ hoặc không quyết định các vấn đề, công việc thuộc thẩm quyền; thực hiện việc luân chuyển, xử lý cán bộ sợ sai, sợ trách nhiệm trong thực thi công vụ. Kịp thời biểu dương, khen thưởng những tập thể, cá nhân thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm vì lợi ích thần này tiếp tục được Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà nhấn mạnh tại diễn đàn Quốc hội ngày 31/5. Thêm vào đó, Bộ trưởng cho rằng, cần xác định rõ trách nhiệm người đứng đầu trong thực thi công vụ. Bởi thực tế cho thấy, nơi nào người đứng đầu quyết tâm, quyết liệt, dám nghĩ, dám làm, thể hiện rõ vai trò lãnh đạo dẫn dắt thì nơi đó thành công, kỷ cương, kỷ luật công vụ trưởng Bộ Nội vụ cũng đề nghị cơ quan kiểm tra, điều tra, truy tố, xét xử tiếp tục nghiên cứu, phân loại vụ việc vi phạm, sai phạm có tính chất, mức độ, động cơ nếu không vụ lợi cá nhân, không tham ô, tham nhũng thì khoan dung, khoan hồng hơn nữa để khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm vì lợi ích An Số chính phương được định nghĩa là số bằng bình phương của một số nguyên. Cũng như số nguyên tố, thì bài toán về số chính phương cũng là dạng bài thường gặp trong chương trình Toán học lớp 6 – 7, dành cho học sinh giỏi Toán bậc giúp các em có thể tìm hiểu các dạng toán về số chính phương, giới thiệu đến các em tài liệu chuyên đề số chính phương. Tài liệu gồm 63 trang giới thiệu 04 dạng toán về số chính phương thường gặp, cùng với đó là phương pháp giải, ví dụ mẫu và bài tập vận dụng có lời giải chi tiết.Khái quát nội dung tài liệu chuyên đề số chính phương A. Kiến thức cần nhớ 1. Định nghĩa số chính phương. 2. Một số tính chất cần nhớ. B. Các dạng toán thường gặp Dạng 1 Chứng minh một số là số chính phương, hoặc là tổng nhiều số chính phương. Cơ sở phương pháp Để chứng minh một số n là số là số chính phương ta thường dựa vào định nghĩa. [ads] Dạng 2 Chứng minh một số không là số chính phương. Cơ sở phương pháp Để chứng minh n không là số chính phương, tùy vào từng bài toán ta có thể sử dụng các cách sau + Phương pháp 1. Chứng minh n không thể viết được dưới dạng một bình phương một số nguyên. + Phương pháp 2. Chứng minh k2 < n < k + 12 với k là số nguyên. + Phương pháp 3. Chứng minh n có tận cùng là 2; 3; 7; 8. + Phương pháp 4. Chứng minh n có dạng 4k + 2; 4k + 3. + Phương pháp 5. Chứng minh n có dạng 3k + 2. + Phương pháp 6. Chứng minh n chia hết cho số nguyên tố p mà không chia hết cho p2. Dạng 3 Điều kiện để một số là số chính phương. Cơ sở phương pháp Chúng ta thường sử dụng các phương pháp sau + Phương pháp 1 Sử dụng định nghĩa. + Phương pháp 2 Sử dụng tính chẵn, lẻ. + Phương pháp 3 Sử dụng tính chất chia hết và chia có dư. + Phương pháp 4 Sử dụng các tính chất. Dạng 4 Tìm số chính phương. Cơ sở phương pháp Dựa vào định nghĩa về số chính phương A = k2 với k là số nguyên và các yêu cầu của bài toán để tìm ra số chính phương thỏa bài toán. Tài Liệu Toán Ôn Thi Vào Lớp 10Ghi chú Quý thầy, cô và bạn đọc có thể chia sẻ tài liệu trên bằng cách gửi về Facebook TOÁN MATH Email [email protected]

chứng minh số chính phương