Chương 66: Vượt giới hạn! Chết. Bẩm Nhị gia, hiện lương thực mới sắp thu hoạch, cho nên giá lương thực cũ rất rẻ, giảm so với thường ngày hơn ba phần, hơn nữa nguồn cung dư dả, tới hôm nay đã mua được 150 vạn đảm, quá nửa đã được đưa lên xe, đang trên đường
Trong luật dân sự, nguyên tắc bồi thường thiệt hại cũng được xác định dựa trên yếu tố " phòng vệ chính đáng " hay " vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng ". Theo quy định tại Điều 613 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì người gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ đáng không phải bồi thường cho người bị thiệt hại.
HCM tổ chức thành công Phiên tòa giả định với chủ đề "Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng". Các tình tiết của vụ án đã được trình bày trước Tòa, cụ thể như sau: Nguyễn Tuyết Mai (20 tuổi) cùng bạn là chị Trần Yến Nhi khi đang di chuyển bằng xe máy trên đường thì bị Lê Thành Nhân và Lê Hà My chặn xe cướp tiền.
Điều này đòi hỏi người phạm tội có cơ sở thực hiện quyền phòng vệ nhưng đã phòng vệ rõ ràng quá mức cần thiết khi gây ra hậu quả. Cụ thể: nận nhân đã có hành vi trái pháp luật, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể, xâm phạm quyền hoặc lợi ích chính đáng của người phạm tội hoặc của người khác.
Nếu gây chết người thì phạm tội "Giết người đó vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng" (Điều 126 BLHS). 3. CÁCH KHAI BÁO THÔNG MINH Nếu bạn tiến hành tự vệ/phòng vệ. Mà lại bị kẻ xâm phạm tố cáo ngược lại, khiến bạn dính đến pháp luật, thì khai báo thế nào để minh oan cho bản thân, hoặc giảm nhẹ tội danh về mức thấp nhất.
cash. Phòng vệ chính đáng là gì? Khoản 1 Điều 22 Bộ luật Hình sự 2015 quy định “Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên”. Như vậy, phòng vệ chính đáng được coi là hành vi hợp pháp nên theo quy định của pháp luật , người gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng không phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Một hành vi được coi là phòng vệ chính đáng khi đáp ứng các yêu cầu sau -Thứ nhất, có hành vi trái pháp luật xâm phạm tới lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác hoặc xâm phạm tới lợi ích của chính bản thân người phòng vệ chính đáng -Thứ hai, hành vi xâm phạm đến lợi ích của các chủ thể trong xã hội đang xảy ra hoặc có nguy cơ sẽ xảy ra ngay tức khắc, đe dọa trực tiếp đến các đối tượng được pháp luật bảo vệ. Người thực hiện hành vi phòng vệ chính đáng nhằm ngăn chặn thiệt hại đang xảy ra hoặc có nguy cơ sẽ xảy ra. Nếu thiệt hại đã xảy ra hoàn toàn mà một người mới có hành vi chống trả và gây thiệt hại ngược trở lại thì không thể coi là phòng vệ chính đáng. -Thứ ba, hành vi phòng vệ chính đáng là hành vi đáp trả lại hành vi trái pháp luật và gây ra thiệt hại đối với chính người có hành vi trái pháp luật đó. Bởi vì, chính hành vi trái pháp luật đang gây ra thiệt hại hoặc đe dọa sẽ gây ra thiệt hại ngay lập tức nếu không được ngăn chặn kịp thời. -Thứ tư, hành vi gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng phải là cần thiết và tương xứng với hành vi xâm hại. Hành vi phòng vệ chính đáng được coi là cần thiết khi người thực hiện hành vi này không có sự lựa chọn nào khác trong hoàn cảnh lợi ích của mình hoặc của các chủ thể khác đang bị xâm phạm, nếu không ngăn chặn sẽ để lại hậu quả lớn. Còn hành vi phòng vệ được coi là tương xứng khi hành vi này được thực hiện đúng với mức độ và tính chất của hành vi trái pháp luật. Phân tích quy định về vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là gì? Nếu hành vi phòng vệ không cần thiết hoặc không tương xứng thì người gây thiệt hại vẫn phải bồi thường. Đây chính là trường hợp người phòng vệ đã có hành vi vượt quá giới hạn của PVCĐ Tại khoản 2 Điều 22 BLHS 2015 quy định “Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại”. Vấn đề về trách nhiệm bồi thường đã được quy định trong Điều 594 Bộ luật dân sự 2015 “Người gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng không phải bồi thường cho người bị thiệt hại Người gây thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải bồi thường cho người bị thiệt hại.” Người gây thiệt hại trong trường hợp PVCĐ không phải bồi thường cho người bị thiệt hại . Bởi vì, hành vi phòng vệ chính đáng không bị coi là hành vi trái pháp luật và người thực hiện hành vi không bị coi là có lỗi, nên dù hành vi đó gây ra hậu quả thì người thực hiện hành vi cũng không phải gánh chịu hậu quả đó. Người gây thiệt hại do vượt quá giới hạn PVCĐ phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Bởi vì, lúc đó, hành vi vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng bị coi là hành vi trái pháp luật và người thực hiện hành vi đó bị coi là có lỗi. Trong Điều luật này, mức bồi thường thiệt hại mà người thực hiện hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải bồi thường không được quy định một cách cụ thể. Do đó, thực tiễn đã xảy ra hai luồng ý kiến về mức bồi thường đối với trường hợp này. Bài viết cùng chủ đề Phân tích các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Phòng vệ chính đáng theo quy định pháp luậtCơ sở xác định giới hạn PVCĐTheo quy định tại khoản 1, Điều 22 BLHS 2015, “Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.”[1] Theo đó, người bị xâm phạm đang trong tình thế bị xâm hại nghiêm trọng và để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình thì người xâm hại đã có những hành vi phòng vệ trực tiếp và cấp thiết. Phòng vệ chính đáng PVCĐ là tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội, thông qua đó công dân có thể ngăn chặn được những hành vi chính đáng để bảo vệ quyền và lợi ích của chính mình. Vì vậy PVCĐ không được xem là tội cạnh đó, khoản 2 Điều 22 BLHS 2015 quy định “Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này”.[2] Trong trường hợp này người phòng vệ đã có quyền phòng vệ, đã phòng vệ tuy nhiên đã phòng vệ quá mức cần thiết, tức hành vi PVCĐ đó so với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi bị xâm hại thì nó không xứng đáng.[3]Tuy nhiên, BLHS 2015 lại không giải thích thế nào là “quá mức cần thiết” từ đó làm cơ sở để xác định rõ ràng ranh giới giữa hành vi PVCĐ không là tội phạm với hành vi vượt quá giới hạn PVCĐ là tội phạm trong khi hiện tại vẫn chưa có bất kỳ văn bản pháp luật nào còn hiệu lực giải thích, hướng dẫn thuật ngữ trạng này đòi hỏi các bên có liên quan khi muốn tìm hiểu quy định, điều kiện về giới hạn PVCĐ buộc phải sử dụng Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS 1985 Nghị quyết 02 là nguồn tài liệu tham khảo cũng như người có thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét áp dụng tinh thần của quy định khi ra quyết định. Theo đó, mục II của Nghị quyết 02 quy địnhHành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác được coi là phòng vệ chính đáng khi có đủ các điều kiện sau đâya Hành vi xâm hại những lợi ích cần phải bảo vệ là hành vi phạm tội hoặc rõ ràng là có tính chất nguy hiểm cho xã Hành vi nguy hiểm cho xã hội đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thực sự và ngay tức khắc cho những lợi ích cần phải bảo Phòng vệ chính đáng không chỉ gạt bỏ sự đe dọa, đẩy lùi sự tấn công, mà còn có thể tích cực chống lại sự xâm hại, gây thiệt hại cho chính người xâm Hành vi phòng vệ phải tương xứng với hành vi xâm hại, tức là không có sự chênh lệch quá đáng giữa hành vi phòng vệ với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại.[4]Ngoài ra, cũng theo Nghị quyết 02, “Tương xứng” không có nghĩa là thiệt hại do người phòng vệ gây ra cho người xâm hại phải ngang bằng hoặc nhỏ hơn thiệt hại do người xâm hại đe dọa gây ra hoặc đã gây ra cho người phòng vệ. Để xem xét hành vi chống trả có tương xứng hay không, có rõ ràng là quá đáng hay không, thì phải xem xét toàn diện những tình tiết có liên quan đến hành vi xâm hại và hành vi phòng vệ như khách thể cần bảo vệ thí dụ bảo vệ địa điểm thuộc bí mật quốc gia, bảo vệ tính mạng; mức độ thiệt hại do hành vi xâm hại có thể gây ra hoặc đã gây ra và do hành vi phòng vệ gây ra; vũ khí, phương tiện, phương pháp mà hai bên đã sử dụng; nhân thân của người xâm hại nam, nữ; tuổi; người xâm hại là côn đồ, lưu manh…; cường độ của sự tấn công và của sự phòng vệ; hoàn cảnh và nơi xảy ra sự việc nơi vắng người, nơi đông người, đêm khuya Đồng thời cũng cần phải chú ý đến yếu tố tâm lý của người phải phòng vệ có khi không thể có điều kiện để bình tĩnh lựa chọn được chính xác phương pháp, phương tiện chống trả thích hợp, nhất là trong trường hợp họ bị tấn công bất ngờ. Sau khi đã xem xét một cách đầy đủ, khách quan tất cả các mặt nói trên mà nhận thấy rõ ràng là trong hoàn cảnh sự việc xảy ra, người phòng vệ đã sử dụng những phương tiện, phương pháp rõ ràng quá đáng và gây thiệt hại rõ ràng quá mức như gây thương tích nặng, làm chết người đối với người có hành vi xâm hại thì coi hành vi chống trả là không tương xứng và là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Ngược lại, nếu hành vi chống trả là tương xứng thì đó là phòng vệ chính đáng.[5]Mặc dù giải thích về thuật ngữ “tương xứng” vẫn còn mang tính định tính tuy nhiên qua các ví dụ cụ thể, cũng phần nào làm rõ được bản chất của hành vi PVCĐ qua đó giúp những người có liên quan có cái nhìn tổng quát hơn về ranh giới của PVCĐ trong thực quả pháp lýKhoản 1 Điều 22 BLHS 2015 quy định “PVCĐ không phải là tội phạm”, vì hành động này phù hợp với lợi ích xã hội, hỗ trợ nhà nước việc duy trì trật tự xã hội, chống lại hành vi xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Nếu cá nhân khi có hành vi tự vệ với mục đích là bảo vệ quyền lợi của một hay một nhóm đối tượng xác định, tương xứng với mức độ nguy hiểm của người đang thực hiện hành vi xâm hại sẽ được xem là PVCĐ. Do vậy cá nhân thực hiện đúng chế định PVCĐ sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi tự vệ của vậy, xét về góc độ pháp lý, PVCĐ là quyền chính đáng của mỗi cá nhân, trong khi về mặt đạo đức thì mỗi cá nhân phải có trách nhiệm đối với lợi ích chung của cộng đồng, phải chống trả những hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích đó vì vậy quy định loại trừ trách nhiệm hình sự trong trường hợp PVCĐ được xem là phù hợp với xã hội Việt Nam và thông lệ quốc khi đó, hành vi tự vệ vượt quá giới hạn PVCĐ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Điều này cũng dễ hiểu khi xem xét bản chất của việc quy định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự. Xuất phát từ việc đánh giá khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của chủ thể thực hiện thông qua ý chí và lý trí, pháp luật hình sự các nước trong đó có Việt Nam nhận định rằng, trường hợp một người thực hiện hành vi khi không thấy hoặc buộc phải thấy trước tính nguy hiểm của hành vi cũng như hậu quả của nó không có lý trí thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. tuy nhiên, hành vi vượt quá giới hạn PVCĐ được định nghĩa là hành vi “chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại”[6] qua đó có thể thấy, đây là hành vi có chủ đích xâm hại đến khách thể BLHS đang bảo vệ được thực hiện khi chủ thể hoàn toàn thấy hoặc có thể thấy trước sự nguy hiểm của hành vi và hậu quả nhưng vẫn mong muốn thực hiện. Vì vậy, pháp luật các nước và Việt Nam đều thừa nhận, vượt quá PVCĐ phải chịu trách nhiệm hình tiễn xác định phòng vệ chính đáng và một số kiến nghịThực tiễn xác định phòng vệ chính đáng tại Việt NamPVCĐ không phải là tội phạm, tuy nhiên nếu hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại thì là vượt quá giới hạn PVCĐ và người có hành vi vượt quá giới hạn PVCĐ phải chịu trách nhiệm hình sự[7]. Có thể thấy ranh giới giữa PVCĐ và vượt quá giới hạn PVCĐ là vô cùng mong manh và trong thực tiễn áp dụng vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về vấn đề thực tế khi một người rơi vào tình huống nguy hiểm, bị xâm hại về tính mạng, sức khỏe và tài sản nghiêm trọng, đa số người bị xâm hại không thể kiểm soát được hành vi của bản thân, không đủ bình tĩnh để quyết định chống trả lại hành vi xâm hại như thế nào để không vượt quá giới hạn PVCĐ. Bên cạnh đó, để xác định hành vi chống trả có tương xứng với hành vi xâm hại hay không, có quá đáng hay không thì phải xét toàn diện những tình tiết liên quan đến hành vi xâm hại và hành vi phòng vệ như khách thể cần bảo vệ, mức độ thiệt hại, cường độ của sự tấn công… Vì vậy, có rất nhiều khó khăn trong việc đánh giá giữa PVCĐ và vượt quá giới hạn PVCĐ. Một số kiến nghịTừ những phân tích lý luận và thực tiễn, để công tác xác định giới hạn PVCĐ được chính xác và hiệu quả hơn tác giả đề xuất một số kiến nghị sauThứ nhất, hoàn thiện pháp luật hình sự liên quan đến PVCĐ, cụ thể hóa từng trường hợp được quyền phòng vệ. Ban hành hướng dẫn cụ thể về PVCĐ và vượt quá giới hạn PVCĐ để tránh gây khó khăn cho các cơ quan chức năng và các đối tượng tham gia trong công tác phòng chống tội phạm. Đặc biệt, trong văn bản ban hành cần phải giải quyết chi tiết, mang tính định lượng, dễ xác định các điều kiện của PVCĐ đặc biệt là điều kiện về xác định mức độ “tương xứng”. Thật vậy, trong khi các điều kiện khác trong việc xác định PVCĐ được quy định khá chi tiết và dễ xác định thì quy định về tính “tương xứng” lại mang tính định tính và rất khó xác định được ranh giới chính xác. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho công tác thực hai, đẩy mạnh công tác đào tạo tập huấn nâng cao trình độ cán bộ, các cơ quan chức năng, thường xuyên tổng hợp các trường hợp PVCĐ để từ đó có thể nhìn nhận ra những ưu khuyết điểm của vấn đề này. Cũng như kịp thời đưa ra định hướng sửa đổi, bổ sung sao cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Việc này giúp hệ thống hoá và thống nhất cách hiểu và vận dụng các quy định về điều kiện xác định PVCĐ trong phạm vi cả ba, tăng cường cơ sở vật chất, hiện đại hóa các trang thiết bị phục vụ cho công tác giải quyết các vụ án hình sự, đặc biệt là vụ án điều tra như các công cụ dùng để xác minh tính chất, mức độ của các tình tiết hình NCS. NGÔ MINH TÍN Giảng viên Khoa Luật, Trường ĐH Kinh tế - Luật ĐHQG-HCM TRẦN THỊ BÍCH LY Khoa Luật, Trường ĐH Kinh tế - Luật ĐHQG-HCMNguồn Tạp chí điện tử Tòa án[1] Khoản 1, Điều 22, Bộ luật Hình sự 2015[2] Khoản 2, Điều 22, Bộ luật Hình sự 2015[3] TS. Trần Thị Quang Vinh & Cộng sự, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam - Phần chung, Nhà xuất bản Hồng Đức, trang 242[4] Mục II, Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự 1985[5] Mục II, Nghị quyết 02/HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự 1985[6] Điều 22, BLHS 2015Đây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email info
1. Phòng vệ chính đáng là gì? Theo khoản 1 Điều 22 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi 2017 , phòng vệ chính đáng được quy định là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm. Thế nào là phòng vệ chính đáng và vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng? Ảnh minh họa 2. Thế nào là vượt qua giới hạn phòng vệ chính đáng? Khoản 2 Điều 22 Bộ luật Hình sự quy định hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Đồng thời, người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự Tuy nhiên, điểm c khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cũng quy định người phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng sẽ được xem xét đó là tình tiết giảm nhẹ khi truy cứu TNHS. 3. Mức xử phạt khi phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng Trường hợp gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng Căn cứ Điều 136 Bộ luật Hình sự , người cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng bị xử lý theo quy định sau - Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì bị phạt tiền từ đồng đến đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm + Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%; + Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61 % trở lên. - Phạm tội dẫn đến chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm. Trường hợp giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng Điều 126 Bộ luật Hình sự quy định về tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, cụ thể - Người nào giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. - Phạm tội đối với 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm. Như Mai Nội dung nêu trên là phần giải đáp, tư vấn của chúng tôi dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc, vui lòng gửi về Email info
1. Căn cứ pháp lý Phòng vệ chính đáng được quy định tại Điều 22 Bộ luật Hình sự 2015, cụ thể như sau Điều 22. Phòng vệ chính đáng 1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm. 2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này. 2. Phân tích quy định về phòng vệ chính đáng Trước tiên cần làm rõ như thế nào là phòng vệ chính đáng theo định nghĩa tại Khoản 1 của Điều luật. Ngay tên của Điều luật cũng đã cho chúng ta thấy rằng có 2 vấn đề lớn ở đây đó là Phòng vệ và Chính đáng. Vì sao nhà làm luật không dùng từ Tự vệ mà là Phòng vệ? Tự vệ có nghĩa là tự bản thân bảo vệ cho chính mình, tự vệ chỉ dùng trong trường hợp bản thân người đang có hành vi chống trả bị xâm phạm. Trong trường hợp lợi ích của người khác bị xâm hại mà một cá nhân nào đó thực hiện hành vi chống trả thì hành vi này không còn được xem là tự vệ nữa mà nó đã chuyển sang phòng vệ phòng ngừa và bảo vệ, nội hàm của hành vi phòng vệ rộng hơn tự vệ rất nhiều. Quyền và lợi ích chính đáng đang bị xâm hại mà nhà làm luật khuyển khích bảo vệ vượt ra ngoài phạm vi của một cá nhân nào đó, nghĩa là pháp luật không chỉ khuyến khích tự bảo vệ quyền lợi ích chính đáng của mình mà còn khuyến khích bảo vệ quyền và lợi ích của người khác. Vậy nên dùng từ phòng vệ ở đây là chính xác và nội hàm đủ rộng để thể hiện tính mục đích của điều luật. Tiếp theo chúng ta cùng tìm hiểu như thế nào là chính đáng, điều luật không định nghĩa như thế nào là chính đáng mà chỉ mô tả như thế nào là phòng vệ chính đáng. Tách câu chữ ra, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy ý chí của nhà làm luật thông qua cách hành văn và có thể hiều chính đáng = cần thiết. Tuy nhiên có một vấn đề rất đáng để chúng ta và những người áp dụng luật pháp phải lưu tâm đó là chính đáng và cần thiết đều là những yếu tố mang tính chất định tính, nó phụ thuộc rất lớn vào ý chỉ chủ quan của người nhận diện và đánh giá tình huống. Có thể theo người có hành vi chống trả thì cho rằng nó cần thiết nhưng người bị chống trả và cơ quan xét xử không cho là như vậy và ngược lại. Khoản 2 quy định thêm 2 yếu tố, tạm gọi là 2 căn cứ để góp phần “định lượng” được sự cần thiết đó là căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi thì phần nào chúng ta có thể xác định được dựa vào phân loại tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Việc này giúp cho việc định tính sự cần thiết trở nên giảm định tính hơn nhưng không thể giải quyết triệt để vấn đề. Do vậy nhà làm luật đã rất cẩn trọng và quy định trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là “rõ ràng” vượt quá mức cần thiết. Nghĩa là việc nhận thấy sự quá mức đó rất dễ nhận ra và tuyệt đại đa số đều thấy được điều đó. Thoáng nhìn chung ta sẽ cảm nhận rằng Khoản 1 và Khoản 2 bổ trợ cho nhau nếu không thuộc Khoản 1 thì thuộc Khoản 2 và ngược lại. Tuy vậy phân tích kỹ chúng ta sẽ thấy có một phần khá nhập nhằng ở 2 Khoản này Khoản 1…một cách cần thiết… Khoản 2…rõ ràng quá mức cần thiết… Như vậy đối với trường hợp vượt quá mức cần thiết nhưng chưa đến mức rõ ràng dễ dàng nhận ra thì sẽ áp dụng Khoản 1 hay Khoản 2, bởi lẽ ranh giới giữa phạm tội trong lúc này là rất mong theo quan điểm của tác giả trong trường hợp này chúng ta sẽ áp dụng Khoản 1 theo nguyên tắc có lợi hơn cho người phạm tôi. Nghĩa là cơ quan công tố buộc tội phải có nghĩa vụ chứng minh sự rõ ràng quá mức cần thiết này, nếu không chứng minh được thì bắt buộc phải hiểu người có hành vi chống trả đã chống trả một cách cần thiết. Một vấn đề nữa cũng cần phải chú ý đó là đối tượng chịu tác động phải là người đang có hành vi xâm không phải là sự cẩn thận quá thừa của nhà lập pháp khi ai cũng biết rằng chống trả thì đương nhiên là chống trả lại người đang thực hiện hành vi vi phạm. Tuy nhiên trong thực tế hành vi chống trả này có thể ảnh hưởng đến nhiều người khi sử dụng công cụ, phương thức có phạm vi tác động rộng, hoặc có thể chống trả nhầm đối tượng Ví dụ 1 Vì muốn chống trả lại người đang hiếp dâm mình, C đã thực hiện hành vi xả bình khí độc ngay cạnh đó và cách làm này đã gây thương vong nghiêm trọng cho một số người khu vực xung quanh. Hành vi chống trả này đã vượt ra ngoài chủ thể thực hiện hành vi xâm hại, đã gây phương hại đến các chủ thể khác. Ví dụ 2 Thấy D đang bị bọn cướp tấn công bằng dao và không có khả năng chống trả, E đã rút súng nhằm vào bọn cướp mà bắn, tuy nhiên do trong bối cảnh hoản loạn, E đã bắn đúng vào D gây tử vong tại chỗ. Trường hợp này E đã không chống trả lại người đang xâm hại mà đã chống trả nhầm vào nạn nhân bị xâm hại do đó không thỏa mãn điều kiện phòng vệ chính đáng. 3. Tải file Bình luận Bộ luật Hình sự 2015 hợp nhất năm 2017 – Phần chung Tải về Bình luận Bộ luật Hình sự 2015 hợp nhất năm 2017 – Phần chung
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng