Gốm sứ Việt Nam đã đi qua hàng trăm năm giữ gìn và phát triển để có như bây giờ. Trải qua những biến cố, thăng trầm cùng đất nước nhưng những tinh hoa gốm Việt vẫn còn nguyên giá trị, qua thời gian luôn đổi mới theo từng giai đoạn, tích lũy kinh nghiệm cho từng thế hệ để đến ngày nay, chúng ta đã có Quần: Áo dài được mặc kết hợp với quần thay cho váy như trước. Quần may châm gót, vải mềm, màu sắc đa dạng. Cấu tạo của áo dài. Với lịch sử phát triển qua thời gian dài như vậy, chiếc áo dài Việt Nam đã hoàn thiện hơn bao giờ hết. Áo dài trở thành biểu tượng Gốm sứ phát triển qua các thời kỳ ở Việt Nam - Gốm Sứ đó đây - Việt Nam là một trong những quốc gia có nghề gốm xuất hiện khá sớm. Theo các tài liệu cổ, gốm đã xuất hiện ở Việt Nam một vạn năm trước đây. Sau đây, xin nêu vài nét khát quát sự có mặt của gốm Không cần những hoạ tiết quá cầu kỳ mẫu ly Pipa D4 lấy mảng màu đậm và táo bạo của mình làm điểm nhấn Hộp Quà Ly Gốm Sứ Lớn Pipa D4 là sự lựa chọn lý tưởng dành cho những ai thích một phong cách thời thượng và nổi bật Ly có dung tích lớn phù hợp cho nhiều mục Nói đến đồ gốm sứ, người ta thường nghĩ đến những chiếc chén, tô có màu trắng sữa cùng hoa văn màu xanh dương. Tuy nhiên, tại Gốm Đông Gia, chất liệu gốm sứ được khoác lên mình diện mạo mới với giá trị thẩm mỹ cũng như kỹ thuật cao hơn. cash. Xi măng, sắt thép, bê tông, gốm sứ, kính xây dựng... đang lâm vào cảnh tồn kho tăng cao do nhu cầu tiêu thụ thấp, thị trường bất động sản đóng băng. Tiêu thụ vật liệu xây dựng "ế ẩm"vì cầu yếu, thị trường bất động sản đóng băng. Trước tình trạng vật liệu xây dựng "ế ẩm", 8 Hội và Hiệp hội, gồm Hội Xây dựng Việt Nam, Xi măng, bê tông, kính xây dựng, gốm sứ xây dựng, thép...đã tổ chức Tọa đàm “Thị trường vật liệu xây dựng - Những điểm nghẽn và giải pháp”. Tồn kho gốm sứ, xi măng, kính xây dựng tăng cao Ông Đinh Quang Huy, Chủ tịch Hiệp hội Gốm sứ Việt Nam miêu tả “Thị trường gốm sứ xây dựng trong nước bị tê liệt, suốt từ năm 2021 và đặc biệt trong các tháng đầu năm 2023”. Từ năm 2021 đến nay sản xuất và kinh doanh đã sụt giảm 30 – 35%, đặc biệt là năm 2022 và quý I/2023 hầu như đóng băng, tê liệt cả trong sản xuất và lưu thông. "Dù sản lượng sản xuất chỉ đạt khoảng 50 – 60% nhưng tồn kho nội địa tới 18 – 20% sản phẩm không tiêu thụ được, các doanh nghiệp liên tục phải giảm sản xuất", ông Huy nói. Thị trường bất động sản đóng băng, doanh nghiệp thiếu vốn, dân thiếu việc làm, lãi suất ngân hàng cao, thuế cao so với điều kiện thực tế nên thị trường vật liệu xây dựng hầu như ngưng trệ. Ông Huy cho rằng, nếu không được tháo gỡ nguy cơ phá sản của một lượng đáng kể doanh nghiệp gốm sứ xây dựng là hiện hữu. Thị trường bất động sản khan hiếm dự án mới, giải ngân đầu tư công chưa như kỳ vọng…những điều này đã hẹp cửa tiêu thụ các sản phẩm vật liệu xây dựng. Ngành kính xây dựng cũng đang trong cảnh khó chưa từng thấy. Doanh thu toàn ngành 6 tháng đầu năm 2023 ước giảm 70-80% so với cùng kỳ, đánh dấu một thời kỳ suy giảm dài và liên tục. Tại các tỉnh thành lớn, nhiều dự án đang thi công bị dừng hoặc chủ đầu tư mất khả năng thanh toán cho nhà thầu gia công kính xây dựng, nhà thầu lắp đặt kính xây dựng và các cấu kiện khác các loại cửa sổ, cửa đi, mặt dựng, do vậy các doanh nghiệpkhối gia công và khối lắp đặt kính xây dựng không thu được nợ dẫn tới khó khăn chồng khó lượng tồn kho lũy kế các năm của các doanh nghiệp kính vào khoảng 6 tháng sản xuất. Lượng tiêu thụ của khối doanh nghiệp sản xuất kính xây dựng từ 2019 đến 2023 Năm Lượng tiêu thụ triệu m2 QTC 2019 298 - 333 2020 210 - 228 2021 182 - 203 2022 179 - 213 2023 5 tháng đầu năm 54 - 82 Số liệu của Hiệp hội kính và thủy tinh Việt Nam, tổng công suất thiết kế các nhà máy sản xuất kính xây dựng khoảng tấn/ngày tương đương 415 triệu m2 QTC/năm, trong đó kính xây dựng sản xuất theo công nghệ nổi kính nổi là tấn/ ngày tương đương 235 triệu m2 QTC/năm và kính xây dựng sản xuất theo công nghệ cán kính cán là 850 tấn/ngày tương đương 60 triệu m2 quy tiêu chuẩn/năm, kính xây dựng siêu trắng tấn/ngày tương đương 120 triệu m2 QTC/năm. Với đặc thù dư cung lớn, tiêu thụ nội địa những năm gần đây gần như không tăng, xuất khẩu giảm mạnh từ năm 2022 đến nay, ngành xi măng đang đối diện với tình thế không hề dễ thở hơn gốm sứ hay kính xây dựng. Tổng công suất thiết kế đang vận hành đối với clinker là 90 triệu tấn/năm; xi măng là 112 triệu tấn/năm, với tổng số 83 dây chuyền công nghệ đang vận hành Ông Lương Đức Long, Tổng thư ký Hiệp hội Xi măng Việt Nam VNCA cho hay, tiêu thụ xi măng 5 tháng đầu năm 2023 đã giảm 20% so với cùng kỳ do nhu cầu thị trường sụt giảm rất mạnh, bao gồm cả nội địa lẫn xuất khẩu. Chỉ ra nguyên nhân khiến xi măng khó tiêu thụ, ông Long nói, điểm nghẽn lớn nhất là sự nghẽn đầu ra, trong đó có sự tắc nghẽn trong xây dựng nhà ở xã hội, nhà ở công nhân; Chi phí đầu vào và logistic tăng làm giảm sức cạnh tranh. Ngoài ra, thuế xuất khẩu clinker tăng thêm 5% từ đầu năm nay cũng một phần giảm sản lượng xuất khẩu. Ngành thép cũng không khá hơn. Nhu cầu thép yếu tại hầu hết các khu vực trên thế giới và tâm lý tiêu cực đã tác động đến giá bán thép thành phẩm. Hơn một năm qua, các doanh nghiệp ngành thép cũng vật lộn với khó khăn, lợi nhuận sụt giảm. Cụ thể, sản xuất thép thô 4 tháng đạt 5,998 triệu tấn, giảm 22% so với cùng kỳ năm 2022; Tiêu thụ đạt 6,142 triệu tấn, giảm 18% so với cùng kỳ năm 2022. Xuất khẩu thép thô giảm 78% so với cùng kỳ 2022 với sản lượng xuất khẩu là tấn. Theo Hiệp hội Thép Việt Nam VSA, riêng tháng 04/2023, các đơn vị đã điều chỉnh giá bán thép xây dựng 3 lần, với tần suất giảm 01 lần/01 tuần, nhưng sức tiêu thụ của thị trường vẫn rất yếu Kiến nghị nhiều giải pháp Với tình hình thị trường xây dựng, bất động sản trong nước như hiện tại, các ngành sản xuất xi măng, kính, gốm sứ, bê tông…đồng loạt cho rằng phải khơi thông các điểm nghẽn kịp thời để các ngành này đẩy mạnh bán hàng, duy trì sản xuất, tránh hệ lụy đóng cửa nhà máy. Các hiệp hội đề nghị Chính phủ đẩy mạnh đầu tư công để đạt 95 – 100% của kế hoạch năm 2023. Chú trọng khơi thông dòng vốn cho bất động sản, nhất là bất động sản công nghiệp, bất động sản nhà ở và khẩn trương đơn giản thủ tục cho gói tỷ để dân được vay vốn kịp thời. Mục đích để doanh nghiệp có dòng vốn hoạt động, trong điều kiện dù giá bán sản phẩm có thể thấp nhưng doanh nghiệp vẫn bảo toàn được vốn đủ điều kiện tiếp tục vay. Giảm thuế đất hết năm 2023, và cho nợ thuế đất hết năm 2024. Đề xuất giãn, giảm các loại thuế liên quan đến doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp để người lao động có thể mua được nhà ở xã hội, qua đó phát triển thị trường nhà ở xã hội theo định hướng lâu dài và bền vững. Ngành xi măng đề xuất giảm/tạm hoãn tăng thuế xuất khẩu clinker Áp dụng mức 5%. Ông Lương Đức Long kiến nghị, phải đẩy nhanh xây dựng nhà ở, nhà công nghiệp, đô thị, nhà ở xã hội, nhà ở công nhân; Tích cực sử dụng xi măng trong xây dựng đường giao thông.. Tiếp tục thúc đẩy việc giải ngân, triển khai các dự án đầu tư công mạnh mẽ để tạo động lực và nguồn việc phát triển cho ngành xây dựng và thị trường vật liệu xây dựng. Đại diện VSA cũng kiến nghị Bộ Tài chính điều chỉnh thuế VAT cho các sản phẩm thép từ 10% xuống 8%. Bên cạnh đó, xem xét hạ lãi suất và ưu tiên cho vay với lãi suất ưu đãi đối với doanh nghiệp sản xuất... Mục lục1 Gốm sứ Việt Nam không ngừng phát triển qua mọi thời đại2 Tìm hiểu đồ gốm sứ Việt Nam qua các thời Gốm thời Lý Gốm thời Trần Gốm thời Lê sơ Gốm sứ Chu Gốm sứ Bát Tràng3 Gốm sứ Việt Nam ngày nay có đặc điểm gì? Việt Nam là một trong những nơi gốm xuất hiện sớm. Theo các tài liệu khảo cổ, cách đây một vạn năm, ở Việt Nam đã ra đời loại gốm đất nung. Để tìm hiểu sự phát triển và hình thành nên nghề gốm sứ các bạn không thể bỏ qua bài chia sẻ [ Thuyết minh ] Tìm hiểu đồ gốm sứ Việt Nam qua các thời đại sau đây Gốm sứ Việt Nam không ngừng phát triển qua mọi thời đại > Kết quả khảo cổ học cho biết đồ Gốm đã được người Việt chế tác, sử dụng cách đây khoảng 10. 000 năm. Có thể nói gốm sứ Việt Nam nói riêng hay gốm sứ trên thế giới nói chung không chỉ còn là những đồ dùng thủ công phục vụ nhu cầu thiết yếu trong đời sống con người chén, ấm, đĩa, tô… mà còn hơn thế nó đã trở thành một nét hồn dân tộc, trở thành một vẻ đẹp riêng, một niềm tự hào riêng nói lên cốt cách, tâm hồn của cả một đất nước. Điển hình là thương hiệu gốm sứ Bát Tràng đã đi vào lòng người biết bao thế hệ trong và ngoài nước. > Kinh nghiệm truyền đời của dân làng gốm Bát Tràng là “Nhất xương, nhì da, thứ ba dạc lò”. Cụ thể là để làm ra đồ gốm người thợ gốm phải trải qua các khâu chọn, xử lí và pha chế đất, tạo dáng, tạo hoa văn, phủ men, và cuối cùng là nung sản phẩm. Gốm thời Lý Đặc điểm gốm sứ tráng men hời Lý 1010-1224 bap gồm gốm men trắng ngà ,men nâu và men ngọc màu xanh. Gốm men ngọc thời Lý rất tinh tế, xương đất được lọc kỹ, dày và chắc. Lớp men gốm dày phủ kín xương gốm, mịn, bóng, sờ có cảm giác mát tay. Xương gốm và lớp men bám vào nhau rất chắc. Gốm men trắng Lý có độ trắng mịn và óng mượt và phần nhiều về chất lượng đã đạt tới trình độ sứ. > Men gốm sứ thời Lý trong suốt, sâu thẳm, mịn, lấp lánh ánh sáng. Gốm men ngọc xanh có điểm thêm các sắc vàng chanh, vàng xám nhạt, vàng rơm. Sự khác nhau giữa gốm trắng Lý và gốm trắng Tống Trung Quốc chủ yếu được nhìn nhận qua sắc độ đậm nhạt của màu men hay xương gốm và kỹ thuật chế tác. Đây cũng là đặc điểm khó phân biệt giữa gốm trắng Lý với gốm trắng Tống. Gốm thời Trần Gốm thời Trần1225-1339 có rất nhiều loại, gồm các dòng gốm men trắng, men ngọc, men xanh lục, men nâu, hoa nâu và hoa lam. > Do Gốm thời Trần1225-1339 phát triển kế thừa trực tiếp từ gốm thời Lý, nên các loại gốm thời Trần cơ bản có phong cách giống với gốm thời Lý cả về hình dáng, màu men và hoa văn trang trí. Về hoa văn trang trí mặc dù có cách bố cục hoa văn như thời Lý, nhưng về chi tiết gốm thời Trần không tinh xảo và cầu kỳ như gốm thời Lý. Dễ thấy nhất là với gốm men độc sắc, bên cạnh loại gốm trang trí hoa văn khắc chìm, thời Trần còn phổ biến loại gốm có hoa văn in khuôn trong. Tóm lại, hoa văn trên các sản phẩm gốm sứ rất phát triển ở thời Trần và nó có sự phong phú, đa dạng hơn nhiều về hình mẫu so với gốm thời Lý. Gốm thời Lê sơ Gốm thời Lê sơ 1428-1526 có các thương hiệu dòng gốm được phát triển rất rầm rộ. Điển hình nhất là gốm Chu Đậu và gốm sứ Bát Tràng Gốm sứ Chu Đậu Chu Đậu thời Lê Sơ là xã nhỏ ở huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương. Đây là trung tâm sản xuất gốm sứ cao cấp. Mặc dù gốm Chu Đậu đã xuất hiện từ cuối thời nhà Trần và đến thời Hậu Lê thì bắt đầu phát triển mạnh mẽ. > Hoa văn chủ đạo của gốm sứ Chu Đậu là sen, cúc dưới hình dạng phong phú; hình động vật là chim, cá, côn trùng và người. Gốm sứ Bát Tràng Làng nghề nổi tiếng này hình thành từ thời Lý, Trần. Các sản phẩm của Bát Tràng gồm bát, đĩa, chậu, ấm, bình vôi, bình hoa, gạch, ngói… ngày càng tinh xảo hơn. Men trang trí trên các sản phẩm gốm sứ Bát Tràng có phong cách đặc trưng riêng; hình dáng sản phẩm dày dặn chắc khỏe. Sản phẩm gạch Bát Tràng cũng rất nổi tiếng, dùng lát nhiều sân chùa và đường làng. Bởi thế gốm sứ bát tràng còn được đưa vào trong thơ ca “Ước gì anh lấy được nàng Để anh mua gạch Bát Tràng về xây..” Gốm sứ Việt Nam ngày nay có đặc điểm gì? Tính tới thời điểm hiện tại thì gốm sứ Việt Nam không chỉ khẳng định vị trí của mình trong nước mà còn trên thế giới. Nhiều nước châu Á, châu Âu, đặc biệt là Nhật Bản và Đông Nam Á đã nhập khẩu gốm Việt Nam với số lượng lớn. > Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử đã đưa ra những kết luận mới về con đường biển thông thương giữa các nước từ Nhật Bản, Việt Nam đến các nước Đông Nam Á, gọi con đường này là “con đường gốm”, thay cho tên “con đường tơ lụa và trầm hương” thường được dùng trước đây. Sự hình thành loại chất liệu sứ với các kỹ thuật sản xuất và trang trí hiện đại hàng loạt các thương hiệu, xưởng sản xuất ra đời. Tuy nhiên thì cái tên Bát Tràng vẫn khẳng định được vị trí của mình không chỉ đối với người Việt Nam mà còn trên toàn thế giới. Hãy cùng chiêm ngưỡng các kiệt tác gốm sứ Việt Nam thương hiệu Bát Tràng thời kỳ hiện đại hóa. Đăng nhập Gốm sứ Việt Nam qua các thời kỳ trải dài từ trước công nguyên đến nay mang nhiều giá trị lịch sử và truyền thống của làng nghề gốm sứ Việt Nam. Sứ Long Phương sẽ giúp bạn đọc hiểu hơn về hành trình lịch sử gốm sứ Việt Nam qua các thời kỳ. Gốm sứ Việt Nam qua các thời kỳ 1. Hành trình lịch sử phát triển gốm sứ Việt Nam Hành trình lịch sử gốm sứ Việt trải đã trải qua hàng trăm năm xây dựng, giữ gìn, bảo tồn và phát triển đồng hành cùng sự phát triển của đất nước. Bắt đầu với gốm Việt Nam 10 thế kỷ đầu Công nguyên. Cách ngày nay trên 6000 – 7000 năm, từ những kỹ thuật mới trong chế tác đồ gốm mới được manh nha, nghề gốm Việt Nam với trình độ và kinh nghiệm truyền thống sẵn có đã nhanh chóng tiếp thu, nắm vững và phát triển để tạo nên những sắc thái riêng biệt, trở thành một trong số ít các quốc gia có nghề sản xuất đồ gốm men ra đời sớm và phát triển liên tục. Gốm sứ đã xuất hiện ở nhiều vùng trên đất nước, trải qua bao nhiêu thăng trầm gốm sứ Việt Nam đã có lúc phát triển mạnh, nhưng cũng có lúc gặp khó khăn lớn. Có nhiều làng nghề vẫn còn tồn tại và phát triển cho tới ngày nay nhưng ngược lại cũng có những làng nghề dần mai một và biến mất đi khỏi bản đồ gốm sứ Việt Nam. Tổng hợp 7 kỹ thuật vẽ gốm sứ từ nghệ nhân của Việt Nam TẠI ĐÂY 2. Các giai đoạn gốm sứ Việt Nam qua các thời kỳ Gốm sứ Việt Nam thời kỳ sơ khai Thời kỳ đồ đá Chất liệu gốm đất nung của giai đoạn này thường thô có pha lẫn cát hoặc bã động vật. Phần lớn gốm được nặn bằng tay, mảnh gốm tìm được thường có những hoa văn đơn giản ở phía ngoài như vạch chéo, văn sóng, văn chải răng lược… Các hoa văn này được tạo ra khi đồ gốm còn ướt, một số được tạo bằng các bàn dập, hoặc dùng que nhọn để vẽ, vạch. Các sản phẩm chủ yếu của giai đoạn này là đồ đựng và đun nấu, về cuối ta thấy thêm các loại đồ dùng để ăn uống, trang sức, tuy nhiên thực dụng là yếu tố hàng đầu của các loại gốm thời đó. Thời kỳ đồ đồng Hình ảnh gốm sứ Thời kỳ đồ đồng Sau một thời gian hình thành khá dài, đồ gốm đất nung bước vào thời kỳ phát triển rực rỡ, bước phát triển thứ nhất trong lịch sử gốm Việt Nam. Hầu hết các sản phẩm gốm dân dụng được thành hình bằng bàn xoay một cách khá táo bạo, đã tạo nên sự phong phú của các loại hình và kiểu dáng sản phẩm ngoài nồi chõ dùng để đun nấu, còn thấy vò, bình, chậu, những sản phẩm để chứa đựng, bát, đĩa, chén, mâm bồng dùng trong ăn uống; hoa tai, chuỗi hạt, vòng tay bằng gốm, đồ trang sức, tượng gà, bò, gốm mỹ thuật. Tìm hiểu các sản phẩm men rạn từ chuyên gia Thời kỳ đồ sắt Thời kỳ này là thời kỳ sản xuất ra đồ gốm đất nung. Chất liệu gốm đất nung còn non lửa và thô sơ, so với gốm đất nung đang sản xuất hiện nay, nhưng về mặt tạo dáng và trang trí chưa có thời kỳ nào đặc sắc và phong phú bằng. Vì thế khi nhắc đến đồ gốm đất nung thì tiêu biểu vẫn là của thời đại các vua Hùng thời đại đồng – sắt sớm. Gốm Việt Nam từ thế kỷ II TCN Chiếc bát từ gốm sứ đầu thế kỷ II TCN Từ đầu thế kỷ II TCN, nước ta rơi vào ách thống trị của phong kiến phương Bắc. Do bị đô hộ nên sự phát triển của gốm sứ bị ảnh hưởng rất lớn từ văn hóa Trung Hoa. Các sản phẩm với các đa dạng các tạo hình và hoa văn trang trí có biến đổi nhiều hơn, vẫn bảo lưu và phát triển vốn nghệ thuật cổ truyền từ thời đại trước. Đồng thời hấp thụ và dân tộc hóa những yếu tố vay mượn từ bên ngoài. Tìm hiểu chi tiết gốm Bizen Thời kỳ độc lập từ thế kỷ XI đến XIV Từ thế kỷ thứ 10, Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng các nhà nước phong kiến dân tộc độc lập. Nghề làm đồ gốm có sự phát triển mạnh mẽ, đóng vai trò quan trọng trong phục hồi và phát triển kinh tế, văn hoá, tạo thành bản sắc riêng có, loại hình phong phú, trang trí đa dạng, độc đáo về mỹ thuật. Gốm Lý-Trần, ta có thể chia thành ba nhóm lớn gốm gia dụng, gốm trang trí và gốm kiến trúc. Về tạo dáng gốm gia dụng, nhiều sản phẩm đã được kế thừa và nâng cao, các sản phẩm được tạo dáng trên cơ sở các mẫu trong đời sống như hoa quả, dáng của đồ đồng xưa Về trang trí, gốm Lý – Trần có bước ngoặt mới. Những họa tiết chính là hoa, lá, chim, voi, hổ, người với miêu tả giản dị, mộc mạc, gần gũi thiên nhiên và con người Việt Nam Đồ gốm sứ thời Lý Trần Đặc biệt trong giai đoạn này đã có bước tiến lớn về kỹ thuật nung, các thợ làm nghề đã biết sử dụng con cóc, lò nằm, lò rồng để nâng nhiệt độ nung sản phẩm lên cao từ 1200 độ C đến 1280 độ C Giai đoạn gốm sứ Việt Nam qua các thời kỳ này phát triển mang tính độc lập, khám phá những đề tài trang trí mang đậm tính bản địa của người Việt, tạo nên một trong những trang sử rực rỡ nhất của truyền thống. Các sản phẩm với loại hình phổ biến là liễn, ấm chén, đài sen, âu, tô đĩa…. sản xuất phục vụ sinh hoạt, tiêu dùng từ cung đình đến dân gian. Đặc biệt, thời kỳ này đã hình thành và phát triển các dòng gốm men phong phú, đa dạng như gốm men trắng, gốm men ngọc, gốm men xanh lục, gốm men nâu, gốm hoa nâu và cuối thế kỷ XIV xuất hiện gốm hoa lam. Gốm sứ Việt Nam từ sau thế kỷ XIV Giai đoạn sau thế kỷ XIV, Gốm Việt Nam đã biết nắm bắt các mối quan hệ giao lưu thương mại giữa nhiều nước trên thế giới đã có tác động lớn đến các hoạt động thủ công nghiệp, trong đó có nghề gốm. Trước hết là sự hình thành các trung tâm sản xuất gốm tính chất chuyên môn hóa Thăng Long, Thổ hà Hà Bắc, Phù Lãng Hà Bắc, Hương Cang Vĩnh Phúc,… Bình sứ giai đoạn sau thế kỷ XIV Đồ gốm trở thành mặt hàng xuất khẩu quan trọng, được sản xuất nhiều chủng loại có trình độ kỹ thuật cao với các loại hình chủ yếu là đồ dùng sinh hoạt, đồ thờ bát, đĩa, âm, ang, hộp lư hương, tượng nghệ, chân đèn…, dòng men tiêu biểu là hoa lam, nhiều màu, lam xám, với đề tài trang trí chủ yếu là rồng, phượng, mây, nghê… Gốm sứ Việt Nam từ thế kỷ XX đến nay Gốm sứ Việt Nam đến nay đã phát triển và kế thừa những tinh hoa của thời trước rất nhiều các lò nung thủ công đã thay bằng lò nung gas hiện đại, đảm bảo đáp ứng sản xuất hàng loạt. Sản phẩm đa dạng mẫu mã, hoa văn đẹp mắt, phong phú và nổi bật. Có thể nói lịch sử hình thành và phát triền nền văn hóa gốm sứ Việt Nam trải qua nhiều thăng trầm, biến cố. Tuy nhiên với tâm huyết và bàn tay tài hoa, khéo léo của những nghệ nhân cùng lòng nhiệt huyết với các sản phẩm gốm sứ đã giúp cho những sản phẩm gốm sứ Việt Nam không chỉ phát triển trong nước mà còn nhanh chóng vươn ra khỏi lãnh thổ Việt Nam và được đông đảo bạn bè quốc tế, người tiêu dùng ưa chuộng. 3. Long Phương- Địa chỉ gốm sứ gia dụng tin cậy Phát triển từ cái nôi của gốm sứ Hà Bắc, Công ty cổ phần Tập đoàn Long Phương đã có lịch sử phát triển hơn 20 năm trong nghề gốm sứ. Các nghệ nhân có tay nghề cao, các sản phẩm đa dạng mẫu mã, hoa văn bắt mắt đáp ứng cao nhu cầu của thị trường. Công nghệ sản xuất được thay đổi, học hỏi từ các nước phát triển, Long Phương tự hào là địa chỉ gốm sứ tin cậy được lựa chọn bởi hàng triệu người tiêu dùng. Công ty Sứ Long Phương Có thể bạn quan tâm Tổng hợp các bài viết về gốm sứ gia dụng LPG Nghệ thuật gốm sứ Trung Quốc có gì độc đáo? Gốm sứ khác nhau thế nào? Cách phân biệt gốm và sứ đơn giản Khám phá những nét độc đáo của làng nghề gốm Đồng Nai Cách nhận biết gốm sứ cổ đơn giản, chính xác Thông tin liên hệ Công ty Cổ phần Tập đoàn Long Phương Website hoặc Hotline +84 989 595 866 Địa chỉ Cụm CN Hạp Lĩnh, TP Bắc Ninh Email info Maps Ấm bầu sứ trắng cao cấp Long Phương 69,700₫ – 99,400₫ trên 5 dựa trên 7 đánh giá Bộ bát đĩa 08 món Dây Xanh – Sứ Cao Cấp 440,400₫ trên 5 dựa trên 2 đánh giá Ấm lùn sứ trắng cao cấp Long Phương 44,400₫ – 99,400₫ trên 5 dựa trên 3 đánh giá Bộ bát đĩa Hoàng Kim – Sứ trắng viền vàng 1,328,000₫ Bộ bát đĩa quà tặng An Nhiên 13 món cao cấp 799,000₫ trên 5 dựa trên 1 đánh giá Bộ bát đĩa 08 món Hoa Hồng Bạc – Sứ Cao Cấp 440,400₫ trên 5 dựa trên 2 đánh giá Với lịch sử lâu đời➡️Gốm Việt Nam đã trải qua từng giai đoạn thăng trầm để có thể mang đến cho người Việt những giá trị văn hóa to lớn. Cùng🏆✅SanGia VN tìm hiểu về⭐️gốm sứ Việt⭐️từ xưa đến nay qua bài viết sau bạn nhé! Lịch sử gốm sứ Việt Nam Gốm sứ Việt Nam đã xuất hiện từ cách đây rất lâu khoảng 6000 năm trước, từ thời tiền sử “ăn lông ở lỗ” con người đã biết sử dụng gốm sứ như những vật dụng trong gia đình nồi nấu nhưng gốm thời ấy vẫn còn thô sơ chủ yếu là đất nung lên. Theo dòng lịch sử, gốm Việt Nam qua các thời kỳ đều có nhiều sự thay đổi về phong cách. Ví dụ như Đến thế kỷ thứ II trước công nguyên Gốm sứ Việt Nam chịu sự ảnh hưởng của Gốm Trung Quốc, phong cách gốm thời bấy giờ là theo phong cách Hán. Đến thế kỉ thứ X trước công nguyên Gốm Việt Nam vẫn mang phong cách Hán, thỉnh thoảng sẽ bắt gặp hình ảnh những vò gốm màu hồng mang phong cách Đông Sơn xong gốm sứ thời ấy vẫn chưa có gì nổi bật. Mãi đến thời Lý - Trần gốm Việt Nam có bước đột phá vượt bậc từ kỹ thuật đến chất men, với màu men xanh ngọc, men trắng, men vàng, hoa nâu đặt biệt là gốm trắng có ánh xanh… họa tiết cũng đa dạng tinh xảo nhiều hoạ tiết khắc họa thiên nhiên cây cảnh, con người. Ảnh đồ gốm việt nam Các nghề gốm Việt Nam trải qua hàng ngàn năm lịch sử, bao biến cố con người Việt Nam vẫn bảo vệ cho cái văn hoa tinh túy của làng nghề. Một số làng nghề vẫn còn giữ cho đến ngày hôm nay một số đã bị mai một xong gốm Sứ Việt Nam không dừng lại mà tiếp tục phát triển vươn ra thế giới và trở thành một niềm tự hào cho người Việt. Một số làng gốm vẫn còn nguyên giá trị ấy Bát Tràng, Bình Dương, Thanh Hà, Bầu Chúc, Vĩnh Long, Phù Lãng, Chu Đậu, Đông Triều, Thổ Hà. Mỗi làng gốm đều có một nét đặc trưng riêng của con người vùng đó. Xem thêm ► So sánh gốm và sứ khác nhau như thế nào? ► Vì sao Gốm Sứ Minh Long là lựa chọn hàng đầu? ► Tìm hiểu Gốm sứ Bình dương - Công ty Gốm sứ tại Bình dương ► Lịch sử hình thành và phát triển của Đồ gốm sứ Trung Quốc Đồ gốm thời Lý Các đồ gốm thời lý như vò, chậu, chạp, nắp hộp, đĩa, lọ, đầu ngói …. được trang trí hoa văn là hình Rồng, hoa sen, hoa cúc. Rồng thời Lý mang nét đặc trưng với đường nét mềm mại lại uốn lượn tinh xảo. Gốm thời Lý đứng đầu là Gốm hoa nâu Lý sản phẩm độc đáo nhất, tiếp đến là Gốm men vàng và, và xanh lục. Gốm Hoa Nâu dòng gốm mang đậm yếu tố Phật giáo thời bấy giờ, những đề tài về hoa sen, hoa cúc được khắc họa trên đồ gốm lúc hiện thực lúc thì vị hóa. Gốm hoa nâu cốt gốm dày thô, chắc chắn. Ảnh Gốm sứ thời Lý Gốm sứ thời Trần Hoa văn trang trí là hoa dây lá, hoa sen, chim muông, hình ảnh rồng thời Trần trên gốm là hình ảnh Rồng khỏe khoắn, uốn lượn tự do không thanh mảnh và gò bó như rồng thời Lý. Gốm thời trần cũng phát triển các dòng men trắng, xanh ngọc, hoa nâu nhưng tiêu biểu nhất là dòng gốm hoa lam với màu men trắng đục họa tiết màu xanh lam. Gốm hoa nâu phản ánh hình ảnh gìn giữ độc lập suốt chặn đường 200 năm của thời nhà Trần. Các hiện vật gốm sứ thời Lý Trần là bao giá trị là nghệ thuật văn hóa, lịch sử chúng ta càng hiểu rõ hơn về bao giá trị tin hoa, phản ánh giai đoạn lịch sử gìn giữ đất nước của ông cha. Xem thêm ► Cách vệ sinh những Sản phẩm Gốm sứ hay cho Gia đình bạn ► Men gốm sứ là gì? Các loại men gốm Bát Tràng nổi bật ► Giới thiệu Gốm Sứ Minh Châu và những sản phẩm bán chạy 1 ► Tất cả Quy trình sản xuất Gốm Sứ - từ Tự động đến Thủ công Ảnh Đồ gốm thời Trần Gốm Việt Nam thời nay Các thương hiệu gốm sứ Việt Nam không chỉ nổi tiếng trên thị trường Việt Nam mà còn ở quốc tế như Gốm Minh Long, Gốm Sứ Bát Tràng, Gốm Sứ Minh Châu, Chu Đậu... Tiêu biểu nhất là Làng Gốm Bát Tràng hình thành và phát triển từ thời nhà Lý đến nay, Gốm Bát Tràng chủ yếu là đồ thờ cúng tâm linh, đồ gia dụng, chén sứ Việt Nam.... Sản phẩm gốm sứ Bát Tràng được nhiều người ưa chuộng bởi đường nét, kỹ nghệ tinh xảo và độ men bóng, tiếng kêu thanh, gốm Bát Tràng mang giá trị lịch sử là thương hiệu của dân tộc vươn ra thế giới. Ngoài làng gốm Bát Tràng ra thì còn có làng nghề gốm Chu Đậu được xuất khẩu sang các nước Nhật Bản Tây Ban Nha, Thái Lan. Xem thêm ► 706+ mẫu Quà tặng Doanh nghiệp HCM cho năm 2020 ► 101+ bộ Ấm chén Minh Long đẹp giá rẻ nhất 2020 ► 109+ Bộ Ấm chén – Bộ ấm Trà Quà tặng in logo giá rẻ siêu đẹp ► 231+ mẫu quà tặng Gốm sứ bán chạy nhất VN Ảnh Đồ gốm Việt Phát triển cách đây 30 năm, ngày nay Gốm Minh Long tiếp thu công nghệ phát triển hiện đại và đạt tiêu chuẩn châu Âu đàn trở thành thương hiệu hàng Việt Nam chất lượng cao. Gốm sứ Minh Châu phát triển gần 20 năm, sản phẩm xuất khẩu các nước châu Âu, châu Mĩ, Châu Phi,... là công ty cổ phần sản xuất đồ gia dụng gốm lớn trên thị trường Việt Nam tính đến nay công ty có 8 nhà máy sản xuất cung cấp liên tục cho người tiêu dùng. Xem thêm ► BST 112+ Bộ quà tặng Gốm sứ chất lượng nhất 2020 ► 63+ Bộ Chén dĩa sứ đẹp làm Quà tặng khách hàng ► Những Bộ Ấm chén Minh Châu giá chỉ từ 200k làm Quà tặng ► 189+ mẫu quà tặng cho Công ty Đối tác Sự khác biệt của gốm sứ xưa và nay Những làng nghề gốm xưa vẫn giữ những cách làm gốm truyền thống bằng bàn tay từ những nghệ nhân. Hoa văn cũng được vẽ tay nên những sản phẩm rất gần gũi, và đặc trưng được các khách hàng ưa chuộng. Khác với nghề gốm truyền thống, gốm sứ hiện đại với sự tiến bộ về công nghệ dây chuyền sản xuất, các sản phẩm gốm được làm toàn bộ bằng máy móc và sử dụng kỹ thuận in nung lên gốm ở nhiệt độ cao, mực in sẽ được giữ vĩnh viễn bền theo thời gian đồng thời không ảnh hưởng đến sức khỏe người dùng. Kĩ thuật in nhiệt, sản phẩm in không bị bong tróc và nứt mẻ mang đến sản phẩm gốm theo đúng yêu cầu của khách hàng. Gốm sứ Việt Nam ngày nay không chỉ có đa dạng về mẫu mã, mà còn an toàn cho sức khỏe người tiêu dùng, chúng ta có nhiều sự lựa chọn hơn và đồ gốm nhiều công dụng ngoài việc mua về dùng cho gia đình có thể mua để tặng bạn bè, biếu người thân, tặng khách hàng,... Ảnh đồ gốm Việt Nam Xem thêm ► 241+ quà tặng Nhân viên ý nghĩa và bất ngờ nhất ► 203+ mẫu quà tặng Cao cấp giao tận nơi cho bạn ► 223+ quà tặng Tân gia ý nghĩa giao hàng tận nơi ► 112+ Mẫu Đĩa sứ CK ChuanKuo giá sỉ cho nhà hàng của bạn Hy vọng bài viết gốm sứ Việt Nam giúp bạn hiểu hơn về giá trị tinh hoa của làng gốm, nghề gốm truyền thống và hiện đại đối với cuộc sống con người Việt. Gốm không thể thiếu đối với nét văn hóa của Việt Nam. Thông tin liên hệ Công ty Quà Tặng Doanh Nghiệp SanGia VN ► Địa chỉ 316 Lê Văn Sỹ, Phường 1, Quận Tân Bình, TPHCM ► Điện thoại 0915 039 109 Zalo ► Email Sales ► Website Vui lòng trích rõ nguồn từ SanGia VN khi sử dụng bài viết Nhân ngày Di sản Văn hóa Việt Nam 23/11, Bảo tàng Lịch sử quốc gia phối hợp với Hội Di sản Văn hóa Việt Nam và Sưu tập An Biên sẽ khai mạc trưng bày chuyên đề Gốm Việt Nam Một truyền thống riêng biệt - Nhìn từ Sưu tập An Biên vào ngày 19/11, công chúng có cơ hội thưởng lãm gần 70 hiện vật gốm men đặc sắc được lựa chọn từ bộ sưu tập cổ vật An Biên và một số hiện vật của Bảo tàng Lịch sử quốc gia. Hành trình gốm Việt tại Triển lãm sẽ trải dài theo từng giai đoạn lịch sử. Bắt đầu với gốm Việt Nam 10 thế kỷ đầu Công nguyên. Cách ngày nay trên năm, từ những kỹ thuật mới trong chế tác đồ gốm được phổ biến từ Trung Hoa, nghề gốm Việt Nam với trình độ và kinh nghiệm truyền thống sẵn có đã nhanh chóng tiếp thu, nắm vững và phát triển để tạo nên những sắc thái riêng biệt, trở thành một trong số ít các quốc gia có nghề sản xuất đồ gốm men ra đời sớm và phát triển liên hình nhà gốm, niên đại thế kỷ I-IIISự chuyển biến và đổi thay của nghề gốm trong giai đoạn này còn thể hiện ở quy mô và tổ chức sản xuất. Nếu như thời Đông Sơn trước đó, chúng ta chưa tìm thấy một trung tâm sản xuất nào, bởi những sản phẩm gốm chủ yếu là tự túc, tự cấp, không có sự chuyên biệt, với quy trình sản xuất đơn giản và gọn nhẹ, thì đến giai đoạn này, hàng loạt trung tâm sản xuất có quy mô lớn đã ra đời. Những cuộc khai quật di tích lò gốm cổ ở Tam Thọ Thanh Hoá, Đại Lai, Luy Lâu, Đương Xá Bắc Ninh, Thanh Lãng, Lũng Ngoại, Đồng Đậu Vĩnh Phúc cho thấy những thợ thủ công làm gốm thời kỳ này đã kết hợp được truyền thống gốm Đông Sơn với kỹ thuật sản xuất gốm tiên tiến đương thời của Trung Hoa để sản xuất ra dòng gốm mang sắc thái bản gốm thế kỷ I-IIIĐặc trưng của đồ gốm thời kỳ này có xương gốm dày, men mỏng thường không phủ hết đồ vật, men màu vàng ngà, trắng nhạt, trắng xám; trang trí hoa văn in nổi ô trám, hoa văn xương cá hoặc lá dừa, hình thoi, chữ S, văn chải, văn sóng nước... một số ấm, âu, hũ có trang trí hình cánh sen, chim, cá, đầu gà, đầu voi. Thế kỷ thứ III đến cuối thế kỷ thứ VI, sản xuất đồ gốm ở khu vực phương Nam có những bước phát triển vượt bậc, xuất hiện một dòng gốm mới đó là gốm men trắng, men trắng xanh được nung với nhiệt độ cao, xương và men gốm cứng. Đây là một cuộc cách mạng trong sản xuất gốm sứ ở tầm mức thế nghiên cứu khai quật các lò gốm cổ ở Cổ Loa Hà Nội, Đại Lai, Luy Lâu, Đương Xá Bắc Ninh, Thanh Lãng, Đồng Đậu, Lũng Hòa Vĩnh Phúc, Tam Thọ Thanh Hóa thấy xuất hiện nhiều những mảnh gốm men trắng, men trắng xanh với loại hình phong phú. Do vậy, có thể khẳng định chắc chắn rằng, Việt Nam thời kỳ này cũng đã bắt kịp và trở thành một trong những quốc gia hiếm hoi trên thế giới có thể sản xuất được loại gốm chất lượng cao gốm thế kỷ I-IIITriển lãm cũng giới thiệu giai đoạn 2 của gốm Việt Nam thế kỷ XI-XIV Từ thế kỷ thứ 10, Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng các nhà nước phong kiến dân tộc độc lập. Nghề làm đồ gốm có sự phát triển mạnh mẽ, đóng vai trò quan trọng trong phục hồi và phát triển kinh tế, văn hoá, tạo thành bản sắc riêng có, loại hình phong phú, trang trí đa dạng, độc đáo về mỹ thuật. Xuất hiện những lò gốm chuyên sản xuất sản phẩm phục vụ cung đình ngay tại khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long. Các lò gốm cũng đã được tìm thấy ở Thăng Long, Hải Dương, Nam Định, Thanh Hoá, Ninh gốm Việt Nam thời Lý - Trần đã phát triển mang tính độc lập, khám phá những đề tài trang trí mang tính bản địa của người Việt, đồng thời tiếp nhận, cải biến mạnh mẽ những yếu tố kỹ thuật, hình dáng, hoa văn đặc trưng của truyền thống sản xuất gốm sứ Trung Quốc thời Đường, Tống, tạo nên một trong những trang sử rực rỡ nhất của truyền thống sản xuất gốm sứ Việt liệu Gốm Hoa lam. Niên đại thế kỷ XIVĐồ gốm thời kỳ này được sản xuất phục vụ tiêu dùng từ cung đình đến dân gian, hình thành nhiều dòng gốm men với loại hình phong phú, trang trí đa dạng gốm men trắng, gốm men ngọc, gốm men xanh lục và vàng, gốm men nâu, gốm hoa nâu và cuối thế kỷ 14 xuất hiện gốm hoa men trắng rất phổ biến dưới thời Lý - Trần, có số lượng lớn, loại hình phong phú, nghệ thuật thẩm mỹ cao, trong số đó có nhiều loại được chế tác tinh xảo, hoa văn trang trí độc đáo mang tính biểu trưng cao quý như rồng, hoa sen, hoa cúc... Gốm men trắng có nhiều sắc độ khác nhau như trắng ngà, trắng đục, trắng sáng ngả xanh, bề mặt men nhẵn bóng, có những vết rạn nhỏ theo thời gian khiến cho nó mang một vẻ đẹp sâu lắng. Chất liệu Gốm men ngọc. Niên đại Thế kỷ XIII -XIVChất liệu Gốm hoa lam, niên đại thế kỷ XVKỹ thuật tạo hoa văn trên gốm men trắng cũng rất phong phú, biến ảo khôn lường khắc chìm, in khuôn, đắp nổi tạo cánh sen ngoài thân hoặc ấn lõm, khắc tạo múi dọc thân, trổ thủng... sử dụng kết hợp các kỹ thuật trên tạo nên sự thanh thoát, tinh tế, tinh xảo cho từng tác đoạn 3 của hành trình gốm Việt là từ thế kỷ XV-XVII, đây là thời kỳ phát triển mạnh mẽ mối quan hệ giao lưu thương mại giữa Việt Nam và nhiều nước trên thế giới. Đồ gốm là mặt hàng xuất khẩu quan trọng, tạo điều kiện cho nghề sản xuất gốm ở Việt Nam phát triển vượt bậc cả về số lượng lẫn chất lượng với nhiều trung tâm sản xuất mang tính chuyên môn hoá, nhiều chủng loại đồ gốm đạt đến trình độ kỹ thuật và mỹ thuật cao như các trung tâm sản xuất gốm sứ nổi tiếng Thăng Long, Bát Tràng Hà Nội, Nam Sách, Bình Giang Hải Dương... Kết quả khai quật khảo cổ học ở tàu cổ Cù Lao Chàm thu được trên hiện vật gốm Việt Nam xuất khẩu với loại hình phong phú, mỹ thuật đặc sắc; cùng với kết quả khai quật các lò gốm vùng Nam Sách, Bình Giang Hải Dương, đồ gốm tàu cổ Cù Lao Chàm góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề về lịch sử đồ gốm Việt liệu Gốm. Niên đại thế kỷ VIChất liệu Gốm men trắng. Niên đại Thế kỷ XII-XIIIChất liệu Gốm hoa nâu. Niên đại Thế kỷ XIII-XIVCuối cùng là Gốm Bát Tràng thế kỷ XVIII- XIX. Bát Tràng - một làng gốm truyền thống có từ thế kỷ 14 cũng bị ảnh hưởng, thị trường gốm xuất khẩu không còn, nhưng vẫn giữ được sức sống bền bỉ nhờ có một thị trường tiêu thụ rộng rãi trong nước với những đồ gia dụng, đồ thờ, đồ trang trí, đồ đặt hàng phù hợp thị hiếu. Cùng khám phá hành trình của gốm Việt Nam, công chúng cũng sẽ tìm hiểu được những thăng trầm của từng giai đoạn lịch sử. Để thêm yêu mến và trân trọng những sản phẩm văn hóa mang dấu ấn, bản sắc văn hóa Việt./.

gốm sứ việt nam qua các thời kỳ